Tiên Du thắng tích
Huyện Tiên-du, tỉnh Bắc-ninh vốn là nơi lắm thắng-tích có dấu-vết của tiền-nhân để lại. Tuy thuộc về miền châu-thổ mà thực ra ở xứ Bắc-kỳ đi ngược lên phía Bắc, bắt đầu thấy núi từ đây.
Mấy giải núi đất lẫn sỏi đá, cây-cối thưa-thớt, trông xa như liền, như đứt, nhấp-nhô tựa hồ như những đợt sóng nổi lên ở chỗ chân trời nhắc cho du-khách biết bao chuyện về lịch-sử. Lại hình thế mỗi trái núi một khác : cao rộng như Bát vạn-sơn, hùng-vĩ như Nguyệt-hằng sơn, thấp bé như Hồng-vân sơn, chạy vòng tay ngai như Long-khám sơn, Vân-khám sơn, lởm-chởm những đá như Lạn-kha sơn.
Đường đi vào các núi hoặc là đường đất cát pha tiện cho xe tay, xe đạp, hoặc đường đi tắt qua cánh đồng, cũng có chỗ đường lên giốc, xuống dốc quanh co như rắn bò.
Núi Bát-vạn ở về phía đông-bắc là trái núi cao và to nhất trong vùng Tiên-du. Kể phong cảnh không có gì là u-nhã, nhưng hai chữ tên núi khiến ta phải để ý và nhắc cho ta một đoạn về dã-sử.
Tục truyền khi nước ta còn dưới quyền đô-hộ của Tàu, quan thái thú là Cao-biền vốn biết thuật phong-thuỷ (địa-lý) cho chỗ núi này có huyệt lớn muốn trấn-yểm, bèn sai quân nặn tám vạn tháp nhỏ bằng đất có bốn từng, cao độ non một thước ta, rộng một gang, bốn mặt hình cái cửa lại có tượng Phật ngồi, dưới trôn tháp để chừa một lỗ sâu. Đoạn cất đại-quân mỗi người vác một cái giáo đầu xóc cây tháp rầm-rộ kéo từ thành Đại-la sang Tiên-du. Đến nơi, quân-sĩ theo hiệu-lệnh, đồng-thanh hô câu “Thống vận Hoàng-đế”, rồi quăng tháp xuống chân núi. Từ đó núi này thành cái tên Bát-vạn. Hiện nay thổ-dân ở đây đem những tháp xem ra còn lành-lặn xây tường miếu thờ Sơn-thần và tương truyền các tháp ấy thiêng lắm, không ai dám lấy mang về nhà. Nghe nói thì cũng biết vậy chứ xét ra không có gì là sở cứ khiến người ta tin được.
Ngày nay, tang thương biến đổi, các cây tháp còn rải-rác khắp bụi cây đám cỏ hoặc nửa chìm nửa nổi, hoặc sứt gẫy, khiến ta trông thấy phải tự hỏi rằng : “Cao-thái thú khi xưa định bụng yểm huyệt hay muốn mượn những đồ đất này để lưu danh?”
Liền với núi Bát-vạn là núi Nguyệt-hằng thuộc xã Hồi-bão, tổng Nội-duệ. Thế núi đột-ngột, cảnh núi hùng-vĩ, đỉnh núi về mùa xuân thường có mây mù bao-phủ, nên khi ẩn, khi hiện. Những cây thông cằn-cỗi mọc ở sườn núi theo ngọn gió mát cất tiếng hò-reo làm thành một thứ âm-nhạc lúc bổng, lúc trầm, khiến khách du lãm nghe thấy tưởng chừng như mình lạc vào nơi tiên cảnh. Dưới chân núi, các nương chè một màu xanh ngắt trông như những tấm thảm giải chênh-chếch liền nhau. Đôi khi du khách gặp từng bọn thôn nữ, vai đeo rỏ cùng nhau vừa hái chè vừa hát. Trong khoảng tịch-mịch bao la tiếng vọng mãi ra tận đàng xa :
Rủ nhau lên núi hái chè,
Đường đi khuất-khúc những khe cùng đèo.
Quản chi đá mọc cheo-leo,
Vui chân ta cố ta trèo, ta lên…
Núi Lạn-Kha (1) còn có tên là Phật-tích, thuộc xã Phật-tích tổng Thụ-phúc. Núi này nhiều đá mọc lởm chởm và cũng lắm hòn hình dạng kỳ quái. Đọc hai chữ “Lạn-Kha” ta lại nhớ đến sự-tích chàng Vương-Chất chép trong Hoàng-Việt địa dư chí. Khi xưa, họ Vương đi kiếm củi, vào núi này, thấy hai ông cụ già ngồi đánh cờ ở gốc cây thông. Ý hẳn họ Vương cũng võ-vẽ đôi ba nước cờ, bèn đặt cây rìu cạnh mình mà đứng xem ; mải miết đến khi tan cuộc, cúi xuống thì, ôi thôi, rìu đã nát tự bao giờ ! Từ đó núi này mới gọi là núi Lạn-Kha lấy nghĩa chữ lạn là nát, kha là rìu. Nay trên đỉnh núi còn một tấm đã vuông vuông rộng bằng hai chiếc chiếu, mặt hơi phẳng, tương truyền là bàn cờ tiên. Trải bao nhiêu năm vật đổi sao dời, bàn cờ còn đây mà khách đánh cờ cùng anh “chầu dìa” thì đâu tá !
Về sau núi này đổi tên là Phật-tích cũng vì về đời nhà Lý có vị cao tăng pháp hiệu Chuyết-công hòa thượng, tu hành đắc đạo, một hôm nhân ngồi nhập định rồi hóa, thân thể khô đét, kết thành tượng, hiện nay vẫn còn thờ ở chùa Phật-tích.
Ở sườn núi Lạn-Kha có chùa Vạn-phúc rất to và cổ, kiến-trúc về thế kỷ thứ 11, khoảng năm Long-thụy thứ tư đời vua Lý-Thánh-Tông (1067). Đời hậu Lê có trùng tu nhưng hiện nay có nhiều chỗ đã đổ nát. Chùa này xưa là nơi dưỡng-tâm của vua Thánh-tông, nên trong chùa còn có chỗ thờ ngài. Trước cửa chùa có mười con giống bằng đá, như voi, ngựa, sấu, nghê chạm trổ rất tỉ mỉ đủ làm chứng cho sự tấn bộ của nền mỹ-thuật Việt Nam về thời cổ. Và đằng sau chùa lố-nhố những tháp xây bằng đá, đến được ba bốn mươi cây. Cứ xem quang-cảnh chùa này đủ hiểu về đời Lý, Phật giáo ở nước ta thịnh đến bậc nào !
Chùa Vạn-phúc còn có sự tích nàng Giáng-Tiên, nhân ngày hội “mẫu-đơn” đến vãng cảnh xem hoa lỡ tay vin gẫy một cành, bị nhà chùa giữ lại bắt đền. May có quan huyện sở tại là Từ-Thức, tính tình hào-hiệp, cởi chiếc áo gấm đưa nhà chùa để chuộc tội cho. Được ít lâu, như chán mùi phú-quí, ghét sự ràng buộc trong vòng danh lợi, Từ tri-huyện liền treo ấn từ quan ngao-du sơn thuỷ, bạn cùng bầu rượu túi thơ. Rồi một hôm, nhân ra chơi của Thần-phù, lạc vào chốn động tiên được kết duyên cùng Giáng-Tiên.
Gần chùa Vạn-phúc có ngôi miếu thờ một bà cung-phi. Cứ như lời các vị cố-lão thì bà phi này huý là Trần Ngọc-Am, vợ chúa Trịnh-Tráng . Tuy ở vào chỗ phú-quí nhưng bà coi cuộc đời như giấc mộng, nên quyết chí tìm thú tiêu dao cửa Phật. Lúc đầu chúa Trịnh còn ngăn-cấm, thậm chí có lần bà sang thăm chúa ở Thăng-Long, vì muốn lưu bà ở lại, chúa phải ra lệnh cấm đò ngang. Sau thấy bà dốc lòng mộ đạo, chúa cũng chiều ý để cho bà được toại nguyện. Lúc giở về già, bà hóa tại đây và hiện nay trong miếu còn có hai pho tượng bà ngồi : một pho bận lối cung trang và một pho bận lỗi tu hành. Ở chỗ thờ bà, ký giả thấy có đôi câu đối mô tả được cái tiểu-sử và cái công-đức của bà nhân chép ra đây để độc giả cùng xem :
Đệ nhất cung-tần qui Phật-địa
Thập tam đình-vũ thử Tiên-hương
Trước miếu có cây tháp đá là nơi chứa di hài của bà.
Núi Hồng-vân thuộc địa phận ba xã Duệ-đông, Sũng-sơn, Lũng-giang, ở ngay gần đường quan-lộ Hà-nội đi Lạng-sơn, cách ga Lim độ non một cây số. Núi này không cao mấy, giá gọi là đồi thì đúng hơn. Chất đất và đá núi sắc đỏ như son. Khi xưa núi này có nhiều cây lim mọc, nhưng ngày nay gần như núi trọi, lác-đác chỉ thấy mấy nương sắn và vài ba sơn-trang. Ngay chân núi, dưới bóng đa cổ-thụ từng dẫy quán lợp gianh, lợp ngói : đấy là chợ Lim, một nơi buôn bán giao-dịch của dân vùng này.
Trên núi có ngôi chùa cổ qui-mô rộng-rãi, tức là Hồng-vân tự với quả chuông lớn đúc từ đời Cảnh-Hưng. Phía tay trái có một văn-chỉ lớn bệ gạch rêu phong là nơi thờ đức Khổng-Tử và các tiên-hiền tổng Nội-duệ. Cách chùa không xa, về phía tay mặt, một cái lăng tường đá ong kiên-cố có tấm bia lớn đứng sừng-sững khiến du-khách không thể bỏ qua mà không thăm. Trong lăng đủ voi, ngựa, phỗng cùng sập đá, ngai đá, trông thật trang-nghiêm. Còn người xưa nằm đó là ai ? Xin thưa đó là lăng ngài Hiệu-trung-hầu huý Diễn, người xã Nội-duệ, triều Lê Cảnh-hưng do chân hoạn-quan làm đến chức Thanh-hoa trấn đốc-đồng, nên dân vùng này quen gọi là lăng quan Trấn. Đứng trước cảnh quạnh-hiu của cả một công-trình vĩ-đại, ta không khỏi liên tưởng đến thời oanh liệt của Nguyễn tướng-công khi xưa. Vì tướng-công bầu hậu hàng tổng và làm đình cho mấy xã, nên đến 13 tháng giêng, muốn kỉ niệm công đức, dân tổng Nội-duệ mở hội rất to gọi là hội Lim, hàng năm đã hấp-dẫn được đa-số khách phương xa với cái tục hát quan họ, tương truyền là của ngài Hiệu-trung-hầu đặt ra để mua vui lúc tuổi già.
Thuộc xã Hoài-bão, tức làng Bịu, sở tại huyện Tiên-du, có hai dẫy Long-khám, Vân-khám chạy vòng tay nga, phân ra tả hữu có đường đi giữa. Trên núi, nấp dưới bóng các cây trám cao ngất, mấy bụi sim với những chùm quả chín mọng ẩn-hiện trong chòm lá xanh. Ở lưng chừng núi Long-khám có chùa Bách-môn tức Linh-cảm tự, kiến-trúc về khoảng Hậu Lê mà người đứng hưng-công là bà Đặng-thị-Huệ vợ chúa Trịnh-Sâm, chùa hình chữ điền, bốn góc có bốn cái lầu là gác trống, gác mõ, gác chuông, gác khánh ; chính giữa, một lầu xây cao vượt lên là nơi tam-bảo. Chỗ lầu nọ đến lầu kia đều có nhà đi thông luôn, thành thử bốn mặt đều là cửa, vả hình chùa vuông, nên các cửa đều nhau chằm-chặp, trông mặt nào cũng như mặt nào và vào cửa nào cũng có tam bảo. Một điều đặc sắc là chỉ toàn cửa mà không có cột. Thực ra chùa chỉ có sáu mươi cửa, nhưng vì vào mặt nào cũng thấy những cửa, nên khách thập phương tưởng-tượng như chùa có tới hàng trăm cửa. (Xin xem lại bản đồ chùa Bách-môn ở trên thì rõ).
Viết tại Tiên-du, mùa thu, năm Bảo-đại thứ 14
VÂN-THẠCH
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)