Trung Cộng 100 năm qua: Một thế kỷ tàn sát và lừa dối (Phần 2/3)
Lưu ý của biên tập viên: Một số câu chuyện tường thuật trong bài viết này chứa các chi tiết phản cảm và đáng lo ngại về tra tấn cùng các hình thức đối xử đê hèn khác.
Đại Nhảy Vọt
Vào năm 1958, Mao đã phát động Đại Nhảy Vọt, một chiến dịch kéo dài bốn năm nhằm thúc đẩy đất nước tăng sản lượng thép theo cấp số nhân trong khi thực hiện hợp tác xã nông nghiệp. Mục tiêu, như khẩu hiệu của Mao, là “vượt qua Anh Quốc và bắt kịp Hoa Kỳ”.
Nông dân được lệnh xây các lò ở sân sau để luyện thép, khiến đất canh tác bị bỏ bê nghiêm trọng. Hơn nữa, các quan chức địa phương quá khích sợ bị xem là “kẻ tụt hậu” đã đặt ra các mức thuế suất trên sản lượng thu hoạch cao một cách phi thực tế. Kết quả là nông dân không còn gì để ăn sau khi giao nộp lượng lớn hoa màu của họ để đóng thuế.
Những gì xảy ra sau đó là thảm họa nhân tạo tồi tệ nhất trong lịch sử: Nạn Đói Lớn từ năm 1959 đến năm 1961, trong đó hàng chục triệu người đã chết đói.
Nông dân bị đói đã chuyển sang ăn động vật hoang dã, cỏ, vỏ cây, và thậm chí là cao lanh (kaolinite), một loại khoáng chất đất sét. Nạn đói cùng cực cũng khiến nhiều người phải ăn thịt đồng loại.
Có những trường hợp được ghi nhận về việc có người phải ăn thi thể của người lạ, bạn bè và người nhà, cũng như cha mẹ sát hại con cái để làm thức ăn – và ngược lại.
Ông Jasper Becker, tác giả của cuốn sách “Những Con Ma Đói” (Hungry Ghosts), câu chuyện kể về Đại Nhảy Vọt, đã nói rằng người dân Trung Quốc buộc phải tham gia – vì tuyệt vọng thuần túy – vào việc bán thịt người ngoài chợ và hoán đổi con để họ không phải ăn thịt con mình.
Trên khắp 13 tỉnh thành, đã có tổng cộng từ 3,000 đến 5,000 trường hợp ăn thịt đồng loại được ghi nhận.
Ông Becker lưu ý rằng việc ăn thịt người ở Trung Quốc vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 60 có thể đã xảy ra “trên quy mô chưa từng có trong lịch sử thế kỷ 20.”
Nhà sử học Trung Quốc Dư Tập Quảng (Yu Xiguang) vào những năm 1980 đã tìm thấy một bức ảnh tư liệu từ quê hương ông ở tỉnh Hồ Nam. Bức ảnh cho thấy một người đàn ông tên là Lưu Gia Viễn (Liu Jiayuan) đang đứng bên cạnh đầu và xương cậu con trai 1 tuổi của anh ta. Cuối cùng, ông Lưu đã bị xử tử vì tội sát nhân.
Sau đó, ông Dư đã phỏng vấn người nhà còn sống của Lưu vào những năm 2000 để xác minh câu chuyện. Ông viết trong một báo cáo: “Lưu Gia Viễn đã cực kỳ đói. Ông ta sát hại con trai mình và nấu [thịt thành] một bữa ăn lớn. Trước khi ăn xong, người nhà đã phát hiện ra tội ác của ông ta và trình báo với cảnh sát. Sau đó ông ta đã bị bắt và xử tử.”
Theo nhà sử học Dikötter, tác giả cuốn “Nạn Đói Lớn của Mao,” có tới 45 triệu người đã thiệt mạng trong thời kỳ Đại Nhảy Vọt.
Cách mạng Văn hóa
Sau thất bại thảm hại của Đại Nhảy Vọt, Mao, cảm thấy rằng mình đang mất dần quyền lực, đã phát động Cách mạng Văn hóa vào năm 1966 trong một nỗ lực sử dụng quần chúng Trung Quốc để tái khẳng định quyền kiểm soát đối với Trung Cộng và đất nước. Theo một chỉ thị ban đầu, khi tạo ra sự sùng bái cá nhân, Mao muốn “đè bẹp những người cầm quyền đang đi theo con đường tư bản” đồng thời củng cố hệ tư tưởng của riêng mình.
Trong hơn 10 năm hỗn loạn do chính sách, hàng triệu người đã bị sát hại hoặc tự vẫn trong bối cảnh bạo lực do nhà nước khởi xướng; những người trẻ tuổi nhiệt huyết, các Hồng Vệ Binh khét tiếng, đi khắp đất nước để phá hủy và bài xích truyền thống và di sản của Trung Quốc.
Đó là một nỗ lực của toàn xã hội, với việc đảng khuyến khích người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội tố cáo đồng nghiệp, hàng xóm, bạn bè và thậm chí cả người nhà là “phản cách mạng” – bất kỳ ai có suy nghĩ hoặc hành vi không đúng đắn về chính trị.
Các nạn nhân, bao gồm trí thức, nghệ sĩ, quan chức Trung Cộng, và những người khác bị xem là “kẻ thù giai cấp”, đã phải chịu sỉ nhục qua nghi thức “đấu tố” – các cuộc tụ tập công khai nơi nạn nhân bị buộc phải thừa nhận tội ác gán cho họ, và chịu đựng sự lăng mạ và đánh đập từ đám đông; sau đó họ bị giam giữ, tra tấn, và đưa về nông thôn để lao động cưỡng bức.
Phong tục và văn hóa truyền thống Trung Quốc là mục tiêu trực tiếp trong chiến dịch của Mao nhằm tiêu diệt “Tứ Cựu” – phong tục cũ, văn hóa cũ, tập quán cũ, và tư tưởng cũ. Kết cuộc là vô số di tích văn hóa, đền thờ, nhà cổ, tượng và sách đã bị phá hủy.
Bà Trương Chí Tân (Zhang Zhixin), một đảng viên Trung Cộng ưu tú từng làm việc trong chính quyền tỉnh Liêu Ninh, là một trong những nạn nhân của chiến dịch này. Theo một báo cáo được truyền thông Trung Quốc đưa tin sau Cách mạng Văn hóa, một đồng nghiệp đã trình báo bà Trương năm 1968 sau khi bà bình luận với đồng nghiệp đó rằng bà không thể hiểu được một số hành động của Trung Cộng. Người phụ nữ 38 tuổi này sau đó đã bị giam giữ tại một trung tâm đào tạo cán bộ đảng ở địa phương, nơi giam giữ hơn 30,000 nhân viên của chính quyền tỉnh.
Trong thời gian bị giam giữ, bà không chịu thừa nhận đã làm bất cứ điều gì sai trái và giữ vững quan điểm chính trị của mình. Bà quả quyết vẫn trung thành với đảng nhưng không đồng ý với một số chính sách của Mao. Bà đã bị bỏ tù.
Ở đó, bà Trương đã phải chịu muôn vàn đau khổ khi các quan chức cố gắng buộc bà từ bỏ quan điểm của mình. Các cai ngục sẽ dùng dây sắt để giữ miệng bà mở và sau đó nhét một giẻ lau bẩn vào miệng. Họ còng tay bà ra sau lưng và treo một khối sắt nặng 40 lbs vào dây xích còng tay. Các quan chức Trung Cộng cấp tỉnh thậm chí còn bứt hết tóc của bà, và lính canh thường sắp xếp để các nam tù nhân hãm hiếp tập thể bà.
Bà Trương đã cố gắng tự tử nhưng bất thành; điều này khiến các quan chức nhà tù tăng cường kiểm soát. Chồng bà cũng bị buộc phải ly hôn với bà. Đến đầu năm 1975, bà Trương rơi vào trạng thái điên loạn. Vào tháng 4 năm đó, bà bị xử bắn. Trước khi bị bắn, cai ngục đã cắt khí quản của bà để bà không hô lên được. Bà qua đời ở tuổi 45.
Trong thời gian bà Trương bị giam giữ, chồng và hai con nhỏ của bà buộc phải từ mặt bà. Khi hay tin bà qua đời, họ thậm chí không dám khóc vì sợ hàng xóm nghe thấy – những người có thể cáo mật họ vì đã mang tâm uất hận đối với Đảng.
Phong trào thảm khốc này chấm dứt vào tháng 10/1976, chưa đầy một tháng sau cái chết của Mao.
Theo ông Dikötter, di sản của Cách mạng Văn hóa vượt xa những mảnh đời bị hủy hoại.
“Đặc trưng của Cách mạng Văn hóa không phải là về cái chết, mà là sự chấn thương tâm lý,” ông nói với NPR vào năm 2016.
“Đó là về cách mà mọi người bị đem ra đối chọi với nhau, bị buộc phải tố cáo người nhà, đồng nghiệp, bạn bè. Đó là về sự mất mát, mất đi sự tín nhiệm, mất đi tình bạn, mất đi niềm tin vào con người, mất đi khả năng dự đoán trong các mối quan hệ xã hội. Và đó thực sự là dấu ấn mà Cách mạng Văn hóa đã để lại.”
Chính sách một con
Năm 1979, Trung Cộng đã đưa ra “chính sách một con”, chỉ cho phép các cặp vợ chồng có một con, trong một chiến dịch có vẻ như nhằm nâng cao mức sống bằng cách kiềm chế sự gia tăng dân số. Chính sách này đã gây ra tình trạng cưỡng bức phá thai, cưỡng bức triệt sản và sát hại trẻ sơ sinh một cách phổ biến. Truyền thông nhà nước Trung Quốc đưa tin với trích dẫn số liệu của Bộ Y tế Trung Quốc, từ năm 1971 đến năm 2013 đã có 336 triệu thai nhi bị phá bỏ.
Bà Hạ Nhuận Anh (Xia Runying), một nông phụ ở tỉnh Giang Tây, người từng bị cưỡng bức triệt sản, đã viết trong một bức thư công khai vào năm 2013 rằng gia đình bà yêu cầu hoãn cuộc phẫu thuật vì sức khỏe của bà không tốt. Tuy nhiên, giới chức địa phương nói rằng họ vẫn sẽ tiến hành phẫu thuật ngay cả khi phải trói bà lại bằng dây thừng.
Sau ca phẫu thuật, bà bắt đầu đi tiểu ra máu, đau đầu và đau bụng. Sau đó, bà buộc phải ngừng làm việc.
Trung Cộng đã ngừng chính sách một con vào năm 2013 và cho phép sinh hai con. Vào ngày 31/05/2021, đảng này thông báo rằng các gia đình có thể có ba con.
(Còn tiếp)