Một phân tích sâu rộng về mức độ đưa tin của các hãng thông tấn lớn về virus Trung Cộng (còn được gọi là COVID-19) được thực hiện bởi ba nhà phân tích của Ivy League, đã phát hiện ra rằng hầu như tất cả các câu chuyện về chủ đề này kể từ tháng Giêng đều là tiêu cực.

Truyền thông Hoa Kỳ có xu hướng bi kịch hóa tin tức về virus Trung Cộng
Cư dân xếp hàng để được xét nghiệm COVID-19 tại trường trung học Pritzker College Prep tại khu phố Hermosa ở Chicago vào ngày 30 tháng 11 năm 2020. (Ảnh Scott Olson / Getty Images)

Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) công bố rằng, “91% bài đăng trên các hãng thông tấn lớn Hoa Kỳ có giọng điệu tiêu cực, so với chỉ 54% bài đăng trên các hãng thông tấn chính nước ngoài và 65% trên các tạp chí khoa học.”

Các tác giả – giáo sư kinh tế Bruce Sacerdote của Đại học Dartmouth, học giả nghiên cứu kinh tế Ranjan Sehgal của trường Dartmouth, và bác sĩ thực tập Molly Cook thuộc Đại học Brown – đã viết: “Đáng chú ý là các hãng thông tấn lớn của Hoa Kỳ có thái độ tiêu cực ngay cả ở những lãnh vực có tiến bộ khoa học như việc mở cửa lại trường học và thử nghiệm vaccine.”

Ba học giả đã xem xét hơn 20,000 bài đăng trên các hãng thông tấn lớn như The New York Times, Fox News, The Washington Post, CNN, và The Wall Street Journal kể từ ngày 01/01.

Tin tức tiêu cực được đặc biệt nhấn mạnh trong các bài về triển vọng phát triển vaccine chống virus Trung Cộng và những tổn thất về kinh tế, y tế và xã hội đối với trẻ em và người lớn do các doanh nghiệp, trường học, nhà thờ và các hoạt động xã hội bị đóng cửa. 

“Cách đưa tin của các phương tiện truyền thông gây ảnh hưởng đến cả sức khỏe và thái độ của người dân đối với các biện pháp phòng ngừa bao gồm tiêm chủng, đeo khẩu trang, và giãn cách xã hội,” nghiên cứu cho biết, trích dẫn 5 phân tích riêng biệt – trong đó có 4 phân tích được thực hiện vào năm 2020 và 1 phân tích được thực hiện vào năm 2015.

“Tỷ lệ người lớn ở Hoa Kỳ có các triệu chứng trầm cảm đã tăng gấp ba kể từ khi đại dịch virus Trung Cộng  bắt đầu. Khi thảo luận về sự gia tăng các vấn đề sức khỏe tâm thần này, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã khuyến cáo không nên đọc quá nhiều tin về đại dịch.”

“Các kết quả [nghiên cứu] của chúng tôi cho thấy CDC đã tiên đoán được việc này.” 

Ví dụ, các tác giả đã trích dẫn bài đầu tiên được công bố vào tháng 3 đưa tin rằng các nhà nghiên cứu của Đại học Oxford có thể phát triển một loại vaccine trong thời gian ngắn hơn nhiều so với thời gian cần thiết thông thường từ 2–5 năm.

Nghiên cứu cho biết trong bài đó và hầu hết những bài tiếp theo đăng trên các hãng thông tấn lớn của Hoa Kỳ về tiến bộ trong phát triển vaccine, “Các quan chức y tế và chuyên gia đã nhấn mạnh những lời cảnh báo, làm hạ thấp tiến trình lạc quan và thành công trong quá khứ của các nhà nghiên cứu Oxford.”

Một ngoại lệ đáng chú ý gần đây trong dòng thông tin tiêu cực là một bản tin của CNN hôm 28/11 về một loại vaccine do các nhà nghiên cứu AstraZeneca và Oxford đồng phát triển.

Bản tin của CNN cho biết: “Kể từ khi Đại học Oxford và AstraZeneca công bố kết quả thử nghiệm vaccine COVID-19 giai đoạn 3 của họ, ngày càng nhiều nghi vấn được đặt ra.”

“Hiệu quả trung bình 70% được công bố [của loại vaccine này] thấp hơn đáng kể so với mức 94.5–95% được báo cáo bởi hai ứng cử viên hàng đầu khác là Moderna và Pfizer.”

“Tuy nhiên, trong những tháng tới, loại vaccine này vẫn có thể được chứng minh là có giá trị đối với thế giới hơn so với hai loại vaccine kia. Nếu có thể giải quyết những nghi vấn về hiệu quả của loại vaccine này và nó được chấp thuận sử dụng, thì có thể mở đường cho việc cung cấp rộng rãi vaccine ở những nơi cần khẩn cấp như các nước nghèo hơn.”

“Chính phủ Vương quốc Anh đã thực hiện bước đầu tiên trong quy trình phê chuẩn đó vào hôm 27/11, và thông báo rằng họ đã chính thức giới thiệu loại vaccine này cho cơ quan quản lý dược phẩm của Vương quốc Anh để đánh giá.”

Tương tự như vậy, mặc dù có nhiều nghiên cứu độc lập được công bố vào năm 2020 cho thấy việc mở lại trường học không góp phần đáng kể vào việc lây lan dịch bệnh, nhưng nghiên cứu của NBER cho thấy “90% các bài báo trên các hãng thông tấn lớn của Hoa Kỳ cho rằng việc mở lại trường học là tiêu cực, so với tỷ lệ chỉ 56% [các bài báo như vậy] trên các hãng thông tấn lớn bằng tiếng Anh ở các nước khác.”

Dân biểu Steve Budd (Cộng Hòa–North Carolina) nói với The Epoch Times hôm 30/11 rằng ông nhận thấy có một mối liên hệ giữa sự tiêu cực được ghi nhận trong nghiên cứu nói trên và thái độ phản đối của các nhà báo thuộc các hãng thông tấn lớn đối với Tổng thống Donald Trump.

“Các phương tiện truyền thông thường lợi dụng nỗi sợ hãi và sự chia rẽ của mọi người, và đó là những gì nghiên cứu này cho thấy. Đó là trường hợp xảy ra ở Hoa Thịnh Đốn, nơi hầu hết những điều tích cực chung của cả hai đảng được Quốc hội thông qua đều bị các hãng thông tấn lớn phớt lờ, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến các bài đăng của họ,” ông Budd nói.

“Đất nước chúng ta mạnh mẽ và kiên cường, nhưng tôi nghi ngờ rằng bất cứ tin tức tích cực nào về đại dịch sẽ khiến TT Trump có lợi thế, và do đó, nó không được đăng trên các hãng thông tấn thiên tả. Nghiên cứu này cho thấy rằng, một lần nữa, giới truyền thông khư khư viết bài theo lối “kể chuyện” hơn là theo lối chú trọng vào dữ kiện có thực.”

Chiến lược gia vận động chính trị của Hoa Thịnh Đốn, cựu binh sĩ Grover Norquist, nói với The Epoch Times rằng cách đưa tin xa rời thực tế của các hãng thông tấn lớn về virus Trung Cộng cũng xảy ra tương tự đối với các chủ đề khác.

“Giới báo chí quyền lực đã cố gắng phớt lờ việc cắt giảm thuế và một nền kinh tế khởi sắc [của Hoa Kỳ]. Tiếp đến là vụ cáo buộc Nga can thiệp bầu cử Hoa Kỳ năm 2016 (Russiagate) rầm rộ một thời rồi bị chìm nghỉm. Sau đó, họ quyết chí đưa ra chiêu bài virus, nhưng điều đó chỉ hiệu quả nếu họ bỏ qua Trung Quốc, hạ thấp kế hoạch phát triển vaccine nhanh chóng của TT Trump vốn đã cho thấy hiệu quả và theo đúng lộ trình cả tháng trước bầu cử,” ông Norquist nói.

“Vì vậy, tin tức chỉ xoay quanh là tiểu bang nào có ca nhiễm đang tăng lên. Nếu số người tử vong giảm, thì xoáy tin tức vào số người nhập viện tăng. Nếu số người nhập viện giảm, thì tập trung đưa tin về các ca dương tính đang tăng lên.”

Nhận xét của ông Norquist phản ánh một trong những phát hiện của nghiên cứu nói trên, rằng “biểu đồ thời gian của các bài báo tiêu cực hầu như không liên quan đến diễn biến thực của những ca nhiễm COVID-19 mới hàng tuần ở Hoa Kỳ”.

Nghiên cứu cũng kết luận rằng “những bài đăng phổ biến nhất trên The New York Times có mức độ tiêu cực cao, đặc biệt là khi liên quan đến COVID-19.”

Nghiên cứu kết luận rằng, “Trên các hãng thông tấn lớn của Hoa Kỳ, những bài thảo luận về lợi ích của việc giãn cách xã hội hoặc lợi ích của việc đeo khẩu trang ít hơn rất nhiều so với những bài về TT Trump không đeo khẩu trang.”

Mark Tapscott
Lê Trường biên dịch

Chia sẻ bài viết này tới bạn bè của bạn