Truyện vua Đinh Tiên Hoàng (số 4)
XV Sự tích Lê Hoàn
Hôm sau sẩy thấy Lê-Hoàn (1),
Quê trong Phủ-lý, ở ngàn Thanh-liêm (2).
Cha là Lê-Mịch chẳng hiền,
Mẹ là Đặng-thị, hợp duyên vợ chồng.
Vui thay giữ đạo tam tòng,
Vốn lòng kính tín, chẳng lòng tà-gian.
Chút chẳng có sự loạn đan,
Vui bề cầy cấy, dưỡng nhân thú quê,
Đặng-thị đức hạnh dung nghi,
Thế ắt khôn bì, người ắt khôn phen,
Lấy nhau vừa đặng đôi niên,
Phúc đức người trước để truyền đời sau.
Thu về nguyệt lãng giời thâu,
Nàng vừa mới giấc ban đầu canh hai.
Bỗng cơn tốn-nhị đưa mùi,
Thoảng đâu bảng-lảng gió giời đưa hương.
Chiêm bao thấy sự lạ nhường,
Bỗng đâu sen nở vào nương nang rày.
Bèn liền bẻ lãm cầm tay,
Cho chúng ăn ray, mình lại miệng không (3).
Từ ấy nhẫn động thai cung,
Nguồn đào nước chẳng thấy thông thái hồ.
Đến kỳ mãn nguyệt sinh ra,
Trên giời mây phủ, dưới nhà hướng xông.
Được một nam-tử lạ-lùng,
Mày Nghiêu lồ-lộ, mặt rồng hây-hây.
Cô dì mừng bảo rằng: “Nay,
Sau ắt người này chủ họ nhà ta.
Toàn gia cùng được vinh-hoa”.
Nào hay song bóng nên nga nhỡn tiền.
Nhớn lên tri ngỏ tài hiền,
Ra danh hào-kiệt, kết nguyền trượng phu.
Thấy đời rắp đuổi loạn Ngô,
Đem binh tử-đệ đền thờ Đinh-công.
Thảo-ngay khuya sớm một lòng,
Vạc thang chẳng chạp, gai chông chẳng hiềm,
Đinh-hoàng yêu đãi trong quyền,
Binh nấy muôn nghìn giữ cõi hải-biên.
XVI – Đinh Bộ Lĩnh thay quyền Trần Minh công
Đinh-hoàng từ được Trần-quyền,
Đức muôn vỗ chùng, ơn nghìn trị dân.
Nào đâu là chẳng xưng thần:
Nào đâu là chẳng đội ơn dào-dồi ?
Tựa nhường vàng Phố mây trôi,
Một giời gió dậy, chín giời cũng thanh.
Dân mừng ca ngợi song sinh,
Tượng giời hẳn mở thái-bình từ đây.
Từ ấy uy động tiếng bay,
Càng năm càng nhớn, càng ngày càng xa.
Người đều dìu-dắt trẻ già,
Nức lòng tìm đến cùng hòa làm tôi.
Sứ-quân ai nấy nghe hơi,
Rằng Trần dưỡng-tử có tài đem binh.
Tinh thôn lòng ắt đã đành,
Chước tung biết mấy, chước hoành kề muôn.
Ra tài tảo đãng kiền-khôn.
Cõi bờ sắm-sửa nước non về cùng.
Ngẫm thời Chu-mạt chiến-phong,
Xuân-thu chưa dứt, thất hùng đã ra.
Cùng nhau gìn-giữ quan-hà,
Phòng tuần tước đoạt để hòa ngự coi.
Trần-công tuy chửa có giai,
Cậy rể có tài, xem vững mười con
Tuần này cơ-nghiệp càng bền,
Chẳng lo chếch-lệch, chẳng phiên nỗi nông.
Chước Trần đã nên anh-hùng,
Bảo toàn mình lại vẹn công họ-hàng.
XVII – Trần Minh công tạ thế
Tuổi nhiều già lẫn có thường.
Người nhân tật nặng, long-sàng giối-giăng.
Vời Đinh-hoàng lại dặn rằng:
“Cơ-hội này chớ dùng-dằng làm chi,
Trượng-phu công-nghiệp có kỳ,
Giời cho chẳng lấy lại thì ăn-năn
Bay đòi thập-nhị sứ-quân,
Tài bẻ chẳng trí kinh-luân trong đời.
Già em chẳng có hai nuôi,
Chớ lòng trẻ nấy, tới người khác toan”.
Thôi bèn thoắt nhắm trong màn,
Đinh-hoàng ấp lấy, khóc than ngùi-ngùi.
Nhớ công nuôi-nấng hôm mai,
Sinh dùng nghĩ thác, biết đời nào quên.
XYIII – Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên mười hai sứ quân
Sắm-sanh trợ-táng vừa yên,
Định-hoàng truyền lệnh quân quan ra đời.
Chữ rằng: xuân bất tái lai,
Một ngày há có hôm mai hai tàn
Ai ai hiến sách đầy sân,
Thành nhân quả quyết, bại nhân dùng dằng.
Tôn Đinh là Bách-thắng vương (4),
Sửa-sang thuyền bộ mở mang cõi bở,
Binh ra thuận gió thuận mưa,
Thiên-thời địa-lợi, nhân-hòa dưới trên.
Lũy nào lũy chẳng phá tan,
Giặc nào giặc chẳng lo toan về đầu ?
Lấy thành như thể hái rau,
Khác nào mãnh hổ công vào đàn dê.
Bắc nam mảng tiếng tìm về,
Kinh rền oai sấm, dậy he hơi hùm.
Những loài tốn ảo hao cơm,
Khi rồi nói lý, khi làm sun tay.
Thấy binh kéo đến chạy ngay
Lấy mình làm trọng, lấy thày làm khinh.
Giang sơn rừng núi quét thanh,
Sứ-quân thập-nhị, phá manh làu-làu.
Kẻ thì thua trận xuống đầu,
Kẻ thì lão tử, kẻ âu trẫm mình.
XIX – Định đô, xưng nước, sắp đặt triều đình.
Nhẫn đành nước chẳng đao binh,
Loan-xa thánh-giá về thành Hoa-lư.
Lấy làm thang mộc định độ.
Lên ngôi bảo-vị, làm vua trị đời.
Nước xưng Đại-cộ nối giời (5),
Xây thành lập lũy, trong ngoài sửa-sang.
Lại xưng Đại-thắng thiên-hoàng,
Định quan văn võ, sắp hàng triều-ban.
Lệ triều thượng-quốc sáng quan,
Chọn tài báo-sinh khôn-ngoan thổ-tử.
Binh đặt có vệ, có cơ,
Một ngũ một cờ, một hiệu một voi.
Bặc, Điền, Lưu, Trịnh bốn người,
Tước phong thái-úy, chức ngồi quốc-công.
Hoàn cai thị-vệ triều trong,
Kỳ dự định thứ, phân phong trong ngoài.
Mừng thay quốc trị lâu dài,
Thư son khoán sắt, chép đời tôi con,
Nhẫn dầu bể cạn non mòn,
Công nghiệp hãy còn, con cháu hãy vâng.
Thiên hạ mừng thất thái-bình,
Thắng-hằng chúc thảnh, cương-lăng trị đời (6)
Khôn thay máy nhiệm ở giời,
Sâm bèn thấy đọc miệng loài tiểu-nhi.
Sâm rằng: “Đỗ-Thích thi Đinh Đinh,
Lê-gia xuất thánh minh”.
Tiệp-lục vân: “Thái-bình ngũ niên hữu thử sắm ngữ”. (7)
(Còn nữa)
(Trích ở quyển Thiên-nam ngữ lục ngoại-kỷ, sách viết bằng chữ nôm của Trường Bác-cổ, số AB 478, tờ 64b-66b)
Ứng hòe-NGUYỄN VĂN TỐ sao lục
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Lê-Hoàn làm thập đạo tướng quân cho nhà Đình, sau làm phó-vương, rồi lên ngôi vua (từ năm 980 đến năm 1005, đặt hiệu là Lê Đại Hành, đóng đô ở Hoa-lư, thọ 85 tuổi (941-1005)
2) Đại-Việt sử-ký (bản-kỷ, quyển 1, tờ 19b) chép “Lê Hoàn là người làng Bảo-thái, huyện Thanh-liêm, không phải là người chia ái. Cựu-sử chép Châu ái là nhầm”. Ấy thế mà vẫn có sách chép là Châu Ái, như quyển Table chronologique des donasties annamites của ông L. Cadière đăng trong tập kỷ-yếu của Trường Bác-cổ, quyển, trang 85.
3) Chuyện chiêm-bao! mà Đạt-Việt sử-ký (bản-kỷ, quyển 1, tờ 19) cũng chấp như thế này: “Cha Lê-Hoàn tên là Mịch; mẹ họ Đặng, trước khi thụ thai, mộng thấy trong bụng sinh hoa sen, một chốc tốt quả, cầm lấy chia cho người ta, mình không ăn”.
4) Sử chép là Vạn-thắng vương, không chép là Bách-thắng vương nhưng nghĩa cũng như nhau. Chữ nho có câu “bách chiến bách thắng”, nghĩa là trăm trận đánh trăm trận được, Do chuyện Hạng-vũ đánh nhau với Bái-công, trận nào cũng được (Bổ-chính thiếu-vi, quyển3, tờ 86a).
5) Ở câu này phải đọc là Đại-cộ, không đọc là Đạt-cồ. quyển Khang-hi tự-điển chua cả hai Âm: cộ với cồ, và cắt nghĩa một chỗ là “trông thẳng” (trừng thị). Như thế có thể chữ Đai-cồ Việt nghĩa là nước Việt nhớn trong suốt cả bốn cõi, hay tám cõi (bát hoang) theo lối ngày xa.
6) Đoạn này là sơ-lược quá, nên lấy sử chữ nho ra chép thêm những việc sau này: “Năm mậu-thìn (968), Đinh-Bộ Lĩnh lên ngôi, đặt quốc-hiệu là Đại-cồ-Việt, đóng đô ở Hoa-lư. Lúc mới muốn đóng ở Đàm-thôn, vì chỗ đất chật hẹp, lại không lợi về việc đặt nơi hiểm yếu, nên dời đến động Hoa lư, dựng kính-đô mới, đắp thành đào ao, làm cung điện, đặt lễ nghi trong triều. Quần thần dâng tôn-hiệu là Đại thắng Minh hoàng-đế. Vua Đình muốn lấy oai trấn thiên-hạ, bạn đặt vạc nhớn ở sân, nuôi hổ dữ ở cũi, hạ lệnh rằng trái phép thì chịu tội mổ cho hổ ăn thịt, người ta đến sợ phục, không dám phjm… Năm Canh-ngọ (970) đặt niên-hiệu là Thái-bình thứ nhất. Xét năm có hiệu thì bên Tàu có từ Hán Vũ đế (140-80 trước kỷ-nguyên), bên ta có từ Lý Nam-đế, đặt là niên-hiệu Thiên-đức (544-548): như thế thì việc đặt niên-hiệu không phải là việc sáng-kiến của nhà Đinh; sách có chép Đinh Tiên-hoàng đặt niên hiệu đầu tiên là không phải, nên bỏ đi… Năm tân-mùi là năm Thái-bình thứ hai (971) định giai-phẩm văn võ, tăng-đạo, lấy Nguyễn-Bặc làm Định-quốc Công, Lưu-Cơ làm đô-hộ-phủ sĩ-sư, Lê- Hoàn làm thập đạo tướng-quân, tăng-thống là Ngô-chân-Luu cho hiệu là Khuông-việt đại-sư, Trương Ma-Ni làm tăng-lục đạo-sĩ, Đặng-huyền-Quang làm Sòng-chân uy-nghi. Năm nhâm-thân là nam Thái-bình thứ ba (972 Đinh Tiên Hoàng sai con là Nam-Việt vương Đinh-Liễn sang nhà Tống dâng lễ vật. Năm qúi-dậu là năm Thái-bình thứ tư (973) Đinh-Liễn tự nhà Tống về. Nhà Tống sai sứ sang sách phong, cho Liễn làm Kiểm hiệu thái-sư, Tỉnh-hải quân tiết đô-sứ, An-nam đô-hộ, vua Đinh làm Giao-chỉ quận-vương.. Năm giáp-tuất là năm Thái-bình thứ năm (974) định quân mười đạo: một đạo mười quân, một quân mười lữ, một lữ mười tốt, một tốt mười ngũ, một ngũ mười người, đều đội mũ “tứ phương binh đính”, là mũ bằng đá, bốn bên khâu vào với nhau, trên hẹp dưới rộng, gọi là binh-đính (bằng đầu). Sử-thần Ngô-thời-sĩ bàn rằng: “Xét pháp, quân-lữ ấy tự một ngũ mười người, đến một đạo mười quân, tính sổ thì mỗi quân một vạn người, tổng số mười đạo quân, thành một trăm vạn người. Lấy áo mặc lương ăn, cho một trăm vạn người, phải phiền đến sự cung-ứng của vạn ức vạn người. Sức-lực một nước, hầu sao chịu nổi ? Hẳn bấy giờ chưa phân biệt người đi lính với kẻ làm ruộng: có việc thì gọi ra, xong việc thì cho về làm ruộng. Hoặc giã như phép chọn binh của tứ trần ngày nay, chỉ còn có ngạch ở số lính mà thôi. Sách-vở vốn ít, thế-đại lại xa, khiến cho người đọc sử không biết được gốc ngọn của việc kén quân bấy giờ…” Năm Ất-hợi là năm Thái-bình thứ sáu (975) định áo mũ quan văn quan võ. Sai sứ sang nhà Tống; nhà Tổng phong Liễn làm Giao-chỉ quân-vương. Từ đấy về sau khi sai sứ sang nhà Tống, đều lấy Liễn làm chủ… Năm bính-tý là năm Thái-bình thứ bảy (976) những thuyền buôn các nước đỗ ở ngoài bể, dâng phương vật. Những người đi buôn ở bể dâng phương-vật, cũng như đi qua cửa ái hay bến đò, phải đưa dấu hiệu làm tin. Đối với quốc-thể, không quan-hệ gì, cho nên bỏ đi không chép. Từ nhà Lý nhà Trần trở về sau, cũng bắt-chước bỏ đi, không chép…” (dịch ở Đại-Việt sử-ký tiền-biên, bản-kỷ. quyển 1, tờ 95-6b: Đại-việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển, tờ 2b-4b; và Khâm định việt sử thông-giám cương-mục; chính biên, quyển 1 tờ 3a-7a, chép cũng gần giống như thể; những chỗ khác nhau sẽ bàn sau).
7) Nghĩa là “Đỗ-Thích giết hai họ Đinh, nhà Lê sinh ra vua thánh-minh. Sách Tiệp-lục chép rằng nhời sấm này có từ năm Thái bình thứ năm, 974”. Tuy là nhời sấm, mà sử chữ nho cũng chép cả, quyển Đại-Việt sử-ký toàn-thư (quyển 1, tờ 6a) chép toàn bài như sau này: