Ý nghĩa ba chữ quốc hiệu Đại Cồ Việt
Hồi Novembre-Décembre 1941, trong cuộc trưng-bày lịch-sử trên nhà Bảo-tàng Maurice Long ở khu Hội-chợ Hà nội do chính-phủ tổ-chức, chắc ai cũng phải để ý đến bức bản đồ nước Đại Cồ Việt hồi thế-kỷ thứ mười,
Một cái vinh-dự: sánh bức Bản đồ Đại-Cồ-Việt ấy với bức bản đồ hiện-thời, tất ai cũng phải cảm-động trước cái công gây dựng đất nước, mở-mang bờ cõi của tổ-tiên. Trong vòng mười thế-kỷ nay, mỗi tấc đất mở rộng là một dấu-vết huyết hận của |tiền-nhân còn in lại.
Như các bạn đã thấy trong bức bản đồ in ở giữa hai trang báo đây, ba chữ “Đại-Cồ-Việt” ấy có thể tiêu biểu được một cái tinh-thần mạnh-mẽ, thống-nhất, đồ-sộ, hùng-tráng nhưng lại dường như ngầm chứa một ý nghĩa mầu-nhiệm, sâu-sắc, khó hiểu.
Chắc cũng như tôi, các bạn trẻ muốn biết rõ nghĩa ba chữ quốc hiệu kỳ-quặc ấy ? Không nên lầm quốc-hiệu với hoàng-hiệu. Quốc-hiệu là cái danh hiệu đại biểu cho một nước khác với họ nhà vua của từng triều-đại một. Còn hoàng-hiệu chỉ có nghĩa: là hiệu những năm trị vì của từng ông vua..
Đinh, Lê, Lý, Trần là họ của các triều-đại. Cảnh-hưng, Chiêu-thống là niên-hiệu hai vua hồi cuối Lê Trung-hưng. Gia-long, Minh-mạng Thiệu-trị, là hoàng-hiện ba vua đầu triều Nguyễn.
Vạn-xuân, Đại-cồ-Việt, Đại-Nam… mới là những quốc hiệu của nước ta do mỗi đời vua đặt gọi một khác. Theo Quốc-sử, nước ta có quốc-hiệu từ đời Hồng Bàng. Văn-lang là một tên quốc hiệu cổ nhất của ta.
Mỗi quốc-hiệu đặt ra tất có ý nghĩa gì gồm chứa ở trong đó, Trong các tên quốc hiệu của ta đây có cái tên Đại-cồ Việt do đời vua Đinh Tiên hoàng đặt ra mà tôi vừa nêu lên ở trên đó là khó hiểu hơn cả. Vậy, nhân nay làm số chuyên san về vua Đinh Tiên-hoàng, ta thử cùng nhau thảo luận cho vỡ lẽ, họa may có thể tìm được ý nghĩa gì đúng chăng. ..
Đặt hiệu cho một quốc-gia, cũng như đặt tên cho một cá- nhân, tất người ta ai cũng phải chọn lấy những chữ những tiếng nếu không được hay-ho đẹp-đẽ thì ít ra cũng phải có ý nghĩa, chứ không mấy khi lại dùng những tiếng vô ý-thức mà đặt làm gì
Quốc-hiệu Vạn-xuân của vua Tiền Lý Nam-đế (544-543) là có ý mong cho vận nước được trường cửu hàng muôn năm. Quốc-hiệu Đại Việt của vua Lý Thánh-tông (1054-1072) là có ý mong cho nước Việt được hùng, được lớn. Còn ba chữ Đại-cổ việt của vua Đinh Tiên-hoàng ? Đại là lớn; Việt là nước Việt nam: hai chữ ấy cố nhiên dễ hiểu rồi. Chỉ có chữ Cồ là đáng cho ta chú-ý nhất,
Theo bộ Khang-hi tự-điển và Từ-nguyên, thì chữ “Cổ gồm có mấy nghĩa. Trừ những nghĩa không đẹp như là sợ sệt, là cái nhìn của chim ó, chim cắt, còn có mấy nghĩa khả thủ như vẻ nhìn-ngó, tên một thứ binh-khí như loài cái kích. Nếu là chuyên danh-từ, thì là họ Cồ.
Nếu vua Đinh đã đặt quốc, hiện bằng ba chữ ây theo nghĩa Hán-văn thì một là nước Việt có cây cỏ (một thứ binh-khí) lớn; hai là nước Việt nhìn ngó một cách lớn-lao.
Đến đây, ta cũng nên ngờ chữ “Cổ” ấy có khi là tên chỗ đất ở của một bà trong năm vị hoàng-hậu triều vua Đinh. Vì sử chép; Vua Đinh Tiên-hoàng lập năm bà hoàng-hậu: 1: Đan-gia; 2: Trinh-minh; 3: Kiểu-quốc; 4: Cồ-quốc; 5: Ca-ông. Ta nên chú ý đến bà Cồ-quốc hoàng-hậu ấy. Biết đâu, vua Đinh không vì quá sủng ái bà hậu kia, nên mới lấy cái tên chỗ đất bà ở mà đặt kèm vào chữ Việt làm thành một tiếng tập-hợp chuyên danh-từ, rồi đem đặt thêm một chữ ở Đại là hình-dung từ lên trên, thành cái quốc-hiện rất hùng: Đại Cồ-Việt. Nếu vậy, thì hai chữ Cồ-quốc không phải không có liên-lạc với ba chữ Đại Cồ Việt,
Nhưng theo các sử gia của ta xưa, thì vua Đinh Tiên-hoàng là người “vô kệ cổ học” (1), là “bất học võ thuật” (2), là “võ lược có thừa mà học vấn không đủ” (3), thì chắc đâu ngài đã uyên-thâm hán-học mà tự đặt hoặc sai đặt quốc-hiệu theo nghĩa hán-văn ?
Nếu vậy, chưa biết chừng, ba chữ “Đại Cồ-Việt”, tiền nhân ta đã đặt theo nghĩa tiếng Nam ? Đại, ngay bây giờ, người ta cũng vẫn quen hiểu nghĩa nó là to-lớn; cái bồ đại,cái nón đại, v.v… Cồ, nghĩa là sù-sụ, to cồ. Việt, nghĩa là nước Việt-nam.
Họp ba chữ ấy lại thành một tên quốc-hiệu rất hùng và rất đẹp; nước Việt to cồ ! Khi đặt quốc-hiệu là Đại-Cồ Việt ấy, biết đâu trong óc vua Đinh không có cái tự hào rằng ta đã tạo được một nước Việt lớn kếch, hoặc có cái hứa-hẹn mong-ước rằng ta sẽ làm cho nước Việt ngày một lớn-lao theo tài-năng và nỗ lực của nhà vua và dân chủng?
Xin các bạn đừng vội gạt đi mà gán cho tôi cái tiếng ngụy-biện ! Đã đọc Quốc-sử, chắc ai cũng còn nhớ đức Phùng Hưng, người đã từng lật đồ được cái ghế kinh-lược-sứ của Cao Chính-Bình, đã bẻ gẫy được cái xiềng xích đô-hộ của nhà Đường thủa trước, sau khi ngài mất, con là An lên nối ngôi làm Đô-phủ quân, tôn xưng ngài là Bồ-Cái đại-vương. Bố vì theo tục người trong chậu bấy giờ gọi cha là bố, gọi mẹ là cái (4).
Người ta đã có thể lấy tiếng nôm làm tôn hiệu một ông vua, thì sao lại không thể lấy tiếng mẹ đẻ làm quốc hiện một nước ? Điều ấy, tôi tưởng, có thể có được lắm. Mà về điều phỏng đoán này có lẽ đúng hơn, vì vua Đinh là một tay quân-nhân xuất thân, đi trận mạc từ thủa hãy còn “để chỏm”, chắc ngài cũng chẳng cần “sôi kinh nấu sử” như những vua ở triều thừa bình. Ngài có thể đặt tên hiệu cho một bà hậu là “Ca-ông”, một tiếng hình như vô nghĩa – vì đã là đàn-bà sao lại gọi là “Ông”được ? – thì có thể lắm, ngài rất dễ-dàng đặt quốc-hiệu là Đại Cồ-Việt theo tiếng nôm ta, miễn nó tỏ ra được rằng ba tiếng “Đại Cồ-Việt” có cái tinh-thần võ-dũng, cái khí-phách hùng-tráng, cái tư-thế bất khả xâm-phạm, cái lực-lượng to tát dồi-dào… Thế là đủ, chà cần gì phải “hoa hòe hoa sói” bằng những tiếng hán-văn vừa kiểu cách, vừa khó hiểu ?
Nếu vua Đinh quả đã nghĩ vậy khi đặt quốc-hiệu như thế, thì ba chữ “Đại Cồ Việt” trong bức bản đồ hồi thế kỷ thứ mười kia thật có nghĩa hay vô cùng và ý-tứ thành-thực vô-cùng !.
Dẫu vậy, đó mới chỉ là những thuyết phỏng-đoán, chúng tôi cần phải đưa ra trước ánh sáng “công-thị” đề chất chính cùng các bậc cao-minh trong nước Đại Cồ-Việt này.
HOA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Lời của sử-thần Lê văn-Hưu trong Đại Việt sử ký.
2) Lời phê-bình của vua Tự Đức trong Khâm định Việt- thông-giám cương mục.
3) Lời của sử thần Ngô thời-Sĩ trong Việt-sử tiền án,