Những ông nghè triều Lê (số 5)
Tiếp theo của số 4
Khoa nhâm-tuất năm Đại-bảo thứ ba (1442) bảy Ông đỗ đệ nhị giáp tiến-sĩ xuất thân, theo thứ tự trong bia như sau này:
1. Trần-văn-Huy, người xã Thái-bạt, huyện Bất-bạt, phủ Thao-giang (có chỗ chép là người ở xã Quang-bị), Làm quan đến Lại-bộ thượng-thư, vâng mệnh đi sứ. Sinh ra Trần Cẩn, đỗ khoa kỷ sửu (1469) chép theo tăng khoa lục quyển 1, tờ 4a).
2. Hoàng-tân-Phu (có người đọc là Hoàng-sằn-Phu) người xã Tiên-kiều, huyện Vĩnh ninh, phủ Thiệu-thiên. Đỗ năm hai mươi chín tuổi. Làm quan đến Hoàng-môn thị-lang, kiêm Quốc-sử tu soạn( Đăng khoa lục q.1, tờ 4a)
3. Nguyễn-Hộc, người xã Cổ kinh, huyện Thạch-hà, phủ Hà-hoa, Đỗ năm ba mươi mốt tuổi. Làm quan đến Hàn-lâm (Đăng khoa lục, q.1, tờ 4a).
4. Võ Lãm (có chỗ chép là Lê-Lãm) người xã Tiên-kiều huyện Kim-động. phủ Khoái châu, ngụ ở Kim-lan (Gia-lâm) Làm quan đến Ngự tiền học-sinh (Đăng khoa lục q. 1 tờ 4 a) Vâng mệnh bình tập thơ của vua Thánh-Tôn (1460 -1497) là tập Quỳnh-uyển cửu ca vv. (chép theo Đại nam nhất thống chí). Soạn đời Tự-đức, sách của trường bác-cổ, số a 69, Hưng yên tỉnh, tờ 16a).
5. Nguyễn-hữu-Phu, người xã Sơn-đồng, huyện Đan phượng, phủ Quốc-oai. Đỗ năm ba mươi tuổi. Vâng mệnh đi xứ, Làm quan đến An phủ sứ ở lộ Thái-nguyên (Đăng khoa lục q.1, tờ 4b) và lộ Khoái-châu. Sử chép năm Thái-hòa thứ bảy (1419) “An phủ sứ lộ Khoái Châu là Nguyễn-hữu-Phu xin cấp lương-bổng cho chúng sai-phu ở văn miếu và học-hiệu các lộ: hai mươi người, giáo thụ hai người. Vua Nhân-tôn (1442-1459) cho (khâm định việt sử thông giám cương mục, q18, tờ 19a).
6. Phạm-Cư, người xã La phù, huyện Thượng-phúc, phủ Thường-tín. Làm quan đến Thái bộc tự-khanh, quyền Tham chính. Có đi sứ Tàu (Đăng khoa lục q.1. tờ 4b)
7. Trần bá-Linh, người xã Thị cầu, huyện Võ ninh, phủ Từ-sơn (bia năm Đạt-bảo (1442) khắc là huyện Võ-giang: có lẽ mới chữa lại sau, vì bia Thái hòa (1448) vẫn chép là Võ-ninh mà (Đăng khoa lục q1, tờ 4b) với (Lễ triệu lịch khoa tiến sĩ đề danh bia ký q1, tờ 6 a, cũng viết là Võ-ninh). Trần bá-Linh làm quan đến Thẩm-hình-viện tri đông-đạo quân dân ba tịch ( Đăng khoa lục q1 tờ 4b). “Năm Diên-ninh thứ sáu (1459) Lê nghi-Dân xưng đế, đặt niên hiệu là Thiên-hưng, rộng tha những kẻ tù-tội, cho trăm quan văn võ thăng tước một trật, sai Thi-chế là lũ Trần-ba-Linh sang nhà Minh cầu phong ! (Cương mục q.18 từ 35a).
Cũng khoa nhâm tuất (1442) đỗ 23 ông đệ tam giáp, đồng tiến-sĩ xuất thân, là những ông Sau này:
1. Ngô-sĩ-Liên, người xã Chúc-sơn ( Đại việt sử ký viết là Chúc lý), huyện Chương-đức phủ Ứng-thiên, tỉnh Sơn-nam. Làm quan đến Thị-lang, kiêm Sử -viện (Sử quán) tu soạn. Hiệu chỉnh bộ Đại việt sử ký làm thêm quyển “Ngoại-ký” Thọ 91 tuổi tại nam thất thống chí Tự đực Hành trang 61a (theo Đăng khoa lục q.1, tờ 4b thì 99 tuổi)
2. Nguyễn-duy-Tắc, người xã Thiện-đông, huyện Tiên-Lữ phủ Khoái-châu. Làm quan đến Hiến-sát-sử. Sinh ra Nguyễn Chương, đỗ khoa Bính-tuất (1466), năm Quang-thuận thứ bảy (Đăng Khoa lục q.1, tờ 4b.)
3. Nguyễn cư-Đạo, người xã Đông-khối, huyện Gia -định, phủ Thuận-an. Vâng mệnh đi sứ. Năm Quang-thuận thứ tám (1467) làm Ngự-sử-đại-đô-ngự sử, quyền Hộ bộ thượng-thư . Đại-nam nhất thống chí, Bắc-ninh tờ 81b, viết nhầm là Lại-bộ thượng-thư, trị kinh-diên-sự (Cương mục, q20, tờ 15a: Đăng khoa-lục, q1, tờ 4b). Vua Thánh Tôn (1460-1497) kết bạn rất thân, thường khen là hết lòng báo nước, Con là Nguyễn-Giản dỗ khoa Mậu tuất năm Hồng Đức thứ chín (1478) làm quan đến binh-bộ thượng-thư hữu thị lang (Đại nam nhất thống chí Bắc-ninh, tờ 31b).
4. Phan-Viên, người xã Bàn-Thạch, huyện Thạch-Hà, phủ Hà-hoa. Đỗ năm hai mươi hai tuổi. Làm quan đến quốc tử-giám tế-tửu. Sinh ra Phan ứng-Tán, đỗ khoa Tân sửu (1481) năm Hồng-đức thứ 12 (Đăng khoa lục, q1, tờ 4b).
5. Nguyễn-Đạt, người xã Duyên-trường, huyện Thanh đàm, phủ Thường-tín. Làm quan đến thượng-thư, kiêm hàn-lâm-viện thừa-chỉ. Là ông tổ Nguyễn-kính-Hòa, đỗ khoa giáp-tuất (1514), năm Hồng. thuận thứ sáu (Đăng khoa lục, q. 1, tờ 5a),
6. Bùi-Hựu, người xã Lam-điền, huyện Chương-đức, phủ Ứng-thiên. Làm quan đến thị lang. Năm Quang-thuận thứ ba (1462) nhà Minh sai Hàn lâm thị độc học-sĩ là Tiền-Phổ và Lễ khoa cấp sư-trung là lũ Vương-Dự sang nước ta đem tờ sách tuyển-phong “An nam quốc-vương”. Vua Thánh Tôn (1460-1497), bèn sai Bùi Hựu đi sứ sang Tàu để tạ về việc ấn phong (Cương mục, q.19, tờ 23a), Bùi-Hựu là anh Bài-Phúc, đỗ khoa màu thìn, Thái-hòa thứ sáu (1448).
7. Phạm-như-Trung, người xã Nhân-lý, huyện Thanh-lâm, phủ Nam-sách. Đỗ năm ba mươi tuổi. Làm quan đến Đông-các hiệu-thư (Đằng khoa lục, q.1, tờ 5a).
8. Trần-Đường, người xã Triền-thủy, huyện Đông-yên, phủ Khoái-châu. Làm quan đến Đề-hình giám-sát ngự-sử. Sinh ra Trần-Cảnh-Mô, đỗ khoa Quí Dậu (1453) (Đăng khoa lục, q.1, tờ 5a).
9. Ngô-thế-Dụ, người xã Khê-nữ, huyện Kim-hoa, phủ Bắc-giang. Làm quan đến Lại bộ tả thị lang (Đăng khoa lục, q.1, tờ 5a).
10. Khúc-hữu-Thành, người xã Thiện-tài, huyện Thiện-tài, phủ Thuận-an. Làm quan đến Binh-bộ hữu-thị-lang (Đăng khoa lục, q.1, tờ 5a)
11. Lê-Lâm, người xã Hạ-bì, huyện Bất-bạt, phủ Thao giang. Làm quan đến giám-sát ngự-sử (Đăng Khoa lạc, q.1, tờ 5a). “Năm Thái-hòa thứ bảy (149) Lê-quán-Chi có tội đánh chết người, đem của chuộc, không phải tội: hoàng-thái hậu sai thu tiền đền mạng. Đài-quan là lũ Lê-Lâm không dám nói: những trẻ con ở nơi đô-thị đến, có đứa nắm tay nói rằng: “Ta giận không được làm đài quan !” (Cương mục, q.18, tờ 23a).
12. Nguyễn-thiện-Tích, người xã Tiền-liệt, huyện Bình-hà, phủ Nam-sách. Làm quan đến thượng-thư. (Đăng Khoa lục, q.1, tờ 5a). Không nên lẫn với Nguyễn-thiên-Tích, đỗ khoa tân-hợi, Thuận-thiên thứ tư (1431), sẽ nói sau.
13. Nguyễn-Nghị, người xã Trác-châu, huyện Thanh lâm, phủ Nam-sách. Đỗ năm ba mươi mốt tuổi. Làm quan đến tham-chính (Đăng hoa lục, q.1, tờ 5b).
14. Trịnh-thiết-Trường, người xã Đông-lý, huyện Yên-định, phủ Thiệu-Thiên, Đỗ khoa nhâm-tuất (1442), nhưng tự xét không kịp sức, xin từ-chối, không lấy đồng-tiến-sĩ. Đến năm Thái-hòa mậu thìn (1448) đỗ bảng-nhỡn (đệ nhất giáp tiến-sĩ cập-đệ). Làm quan đến Công-bộ thượng-thư, trí sĩ, được phong làm Nghi-quốc công (Đại-nam nhất thống chí, Thanh-hóa, tờ 48a ). Năm Diên-ninh thứ tư (1457) vua Nhân-tôn (1442-1459) sai sang Tầu dâng đồ lễ mừng vua Anh-Tôn nhà Minh mới lập con làm Hoàng-thái-tử (Cương mục, q.18, tờ 34a).
15. Trần-Bàn, người xã Từ-sơn, huyện Quế-dương phủ Từ-sơn. Làm quan đến Đông các đại-học-sĩ, ngự – sử, đại phu. Năm Quang-Thuận thứ ba (1462), nhân có quan nhà Minh sáng dụ tế, vua Thánh-Tôn (1460-1497) sai Trần-Bàn sang Tàu tâu mọi việc (Cương-mục q.19, tờ 23a).
16. Nguyễn-quốc-Kiệt, người xã Tráng-liệt, huyện Đông-ngân, phủ Từ-sơn. Làm quan đến thượng-thư, kiếm Thẩm-hình-viện (Đăng khoa lục, q-1, tờ 5b).
17. Nguyễn-Mỹ, người huyện Vĩnh-lai, phủ Hạ-hồng. Làm quan đến Lễ-bộ tả-thị lang (Đăng Khoa lục, q1, tờ 5b).
18. Trịnh-khắc-Tuy, người xã Sáo-sơn huyện Vĩnh-ninh, phủ Thiệu-thiên. Đỗ năm ba mươi tuổi (Đăng khoa lục, q.1, tờ 5 b).
19. Nguyễn-Địch, người xã Vụ-lạc, huyện Đại-an, phủ Kiến-hưng. Làm quan đến tả thị – lang (Đăng khoa lục, q1, tờ 5b).
20. Bùi-lôi-Phủ, người xã Đào-Xá huyện Phú-xuyên, phủ Thường tín (Đăng khoa lạc, và Lê-triều lịch-khoa tiến-sĩ đề-danh bi-ký viết là huyện Phù vân). Đỗ năm ba mươi mốt tuổi. Là ông tổ ba đời Bùi-doãn-Hiệp, đỗ đệ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân Tân Mùi (1511) năm Hồng thuận thứ ba, và tằng-tô Bùi chí-Vinh đỗ đệ tam giáp đồng tiến-sĩ xuất-thân khoa Ất-mùi năm Đại chính thứ sáu nhà Mạc (1535).
21. Lệ Cầu, người xã Nam nguyễn, huyện Phúc-lộc, phủ Quốc-oai.
22. Lê-Hiền, xã Lạc-thực, huyện Thanh-lâm, phủ Nam-sách. Vâng mệnh đi sứ. Làm quan đến Trực-học -sĩ (Đăng khoa lục, q1, tờ 6a).
23. Nguyễn-nguyên-Châu, người xã Lạc-thực, huyện Thanh Lâm, phủ Nam-sách. Đỗ khoa nhâm-tuất (1442) năm mới có mười-tám tuổi, nhưng tự xét không đủ sức đỗ, xin thôi như ông Trịnh-thiết-Trường (số 14): đến khoa sau lại đỗ. Tuy vậy, vẫn có tên trên bia khoa Nhâm-tuất (Đăng khoa lục q1, tờ 6a).
Ứng hòe NGUYỄN VĂN TỐ