PHÂN TÍCH: Báo cáo mới về các tiểu bang tốt nhất và tệ nhất Hoa Kỳ do thiếu các yếu tố quan trọng trong y tế
Theo Bảng điểm mới của Tổ chức Commonwealth Fund về Hiệu suất của Hệ thống Y tế Toàn quốc, tiểu bang Mississippi được xếp hạng kém nhất trong số 50 tiểu bang và Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, về khả năng tiếp cận, chất lượng, dịch vụ, chi phí, và kết quả chăm sóc sức khỏe chung.
Theo báo cáo năm 2023 do tổ chức bất vụ lợi này biên soạn, Oklahoma, West Virginia, Texas, và Arkansas lọt vào danh sách 5 tiểu bang xếp cuối bảng. Báo cáo này được công bố hôm 22/06 và dựa trên dữ liệu có sẵn gần đây nhất trong năm 2021.
Nghiên cứu này đã đánh giá hiệu suất của tiểu bang trên năm hạng mục, bao gồm khả năng tiếp cận và giá cả phải chăng, khả năng phòng ngừa và điều trị, khả năng tránh phải đến bệnh viện và phát sinh chi phí, đời sống khỏe mạnh, chăm sóc sinh sản và sức khỏe nữ giới.
Massachusetts đạt được thứ hạng cao nhất về hiệu suất chung, tiếp theo là Hawaii, New Hampshire, Rhode Island, và Vermont.
Tuổi thọ giảm
Từ năm 2019 đến năm 2021, tuổi thọ và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế đã giảm đáng kể trên toàn quốc. Mọi tiểu bang đều có ca tử vong do COVID-19, cùng với những ca tử vong sớm có thể tránh được do tự tử, sử dụng ma túy quá liều, do rượu, và một số bệnh mãn tính có thể điều trị được.
Báo cáo cũng lưu ý: “Những ca tử vong sớm đã làm giảm tuổi thọ trung bình của quốc gia, trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là những người da màu.”
Đại dịch còn làm trầm trọng thêm các vấn đề về sức khỏe tâm thần và sức khỏe hành vi đối với nhiều người dân Mỹ, dẫn đến tổng số ca tử vong do tự tử, sử dụng ma túy quá liều, và rượu cao nhất, khiến hơn 200,000 người thiệt mạng vào năm 2021, tăng thêm 50,000 ca tử vong có thể tránh được so với năm 2019.
Từ năm 2019 đến năm 2021, Arizona, Louisiana, Mississippi, New Mexico, và Texas đã chứng kiến mức tăng đột biến hơn 35% về số ca tử vong có thể tránh được. Và tỷ lệ tử vong có thể tránh được của Arizona đã tăng với tỷ lệ cao nhất là 45%.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ, tuổi thọ trung bình giảm từ 78.7 tuổi vào năm 2018 xuống còn 77 tuổi vào năm 2020.
Sự khác biệt lớn về kết quả sức khỏe của phụ nữ
Một hạng mục mới đã được thêm vào Bảng điểm năm 2023, đó là chăm sóc sức khỏe và sinh sản của phụ nữ, trong đó nghiên cứu về kết quả chăm sóc sức khỏe dành cho phụ nữ, bà mẹ, và trẻ em sơ sinh. Kết quả cho thấy có sự chênh lệch lớn về hiệu suất giữa các tiểu bang.
“Tỷ lệ sản phụ tử vong khi sinh ở California chỉ thấp ở mức 9.6/100,000 ca, nhưng tỷ lệ này cao hơn 40/100,000 ca ở các tiểu bang Arkansas, Alabama, Louisiana, Tennessee, và Mississippi,” báo cáo cho biết. “Điểm đáng lưu ý đó là California đã nỗ lực phối hợp để giải quyết vấn đề công bằng chủng tộc đối với sức khỏe sản phụ trong suốt thập niên qua.”
Bảo hiểm Y tế
Massachusetts có hiệu suất tốt nhất khi nói đến bảo hiểm y tế và khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc, tiếp đến là Hawaii, Rhode Island, New Hampshire, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Báo cáo nêu rõ rằng, “Các chính sách liên bang tạm thời trong đại dịch COVID-19 đã khiến tỷ lệ người không có bảo hiểm xuống mức thấp kỷ lục, với hầu hết các tiểu bang đều nhận ra lợi ích trong bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, một số chính sách trong đó đã chấm dứt, và chi phí y tế cao vẫn khiến hàng triệu người Mỹ mắc nợ tiền khám chữa bệnh.”
Trong khi đó, Texas có tỷ lệ người trưởng thành không có bảo hiểm cao nhất trên toàn quốc vào năm 2021, với 24.3%. Theo sau Texas là Wyoming, Oklahoma, Georgia, và Mississippi cũng có số người trưởng thành không có bảo hiểm nhiều nhất.
So sánh dữ liệu
Bản báo cáo điểm này phỏng đoán rằng khả năng tiếp cận và kết quả chăm sóc y tế của sản phụ sẽ giảm trong tương lai, viện dẫn rằng các lệnh cấm và hạn chế phá thai “cũng có khả năng gây hạn chế quyền tiếp cận tới các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phòng ngừa quan trọng như ngừa thai và sàng lọc ung thư sinh sản.”
Nêu ra việc Tối cao Pháp viện lật ngược phán quyết trong án lệ Roe kiện Wade hồi tháng 06/2022, báo cáo viết rằng, “Trong thời kỳ đại dịch, tỷ lệ tử vong khi sinh con ở sản phụ và tử vong liên quan đến lạm dụng chất gây nghiện đã tăng nhanh ở phụ nữ thuộc độ tuổi sinh sản — một mối lo ngại đặc biệt do các chính sách mới của tiểu bang đã hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sinh sản.”
Tuy nhiên, việc phá thai vẫn tồn tại trên toàn quốc trong khoảng thời gian báo cáo được tiến hành, nhưng bao gồm cả thời kỳ đỉnh điểm của đại dịch COVID-19 khiến nhiều người trì hoãn hoặc bỏ qua việc chăm sóc phòng ngừa, khám sức khỏe tổng quát, và sức khỏe tâm thần.
Báo cáo của Tổ chức Commonwealth Fund không đề cập đến tỷ lệ khá cao của việc bỏ khám sức khỏe tâm thần và y tế, vốn được cho là sẽ dẫn đến tỷ lệ kết quả điều trị không tốt cao hơn ở tất cả các nhóm, bao gồm cả phụ nữ mang thai. Báo cáo này cũng không thảo luận về các đợt phong tỏa ở nhiều tiểu bang đã dẫn đến việc đóng cửa tạm thời hoặc vĩnh viễn một số cơ sở y tế ra sao.
Theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (JAMA) hồi tháng 01/2021, các nhà nghiên cứu nhận thấy 41% số người tham gia trả lời câu hỏi cho biết họ đã từ bỏ việc chăm sóc y tế trong giai đoạn đầu của đại dịch, từ tháng 03 đến tháng 07/2020. Khảo sát được lấy từ 1,337 người trưởng thành trên toàn quốc, bao gồm 840 người da trắng, 160 người gốc Phi Châu, và 223 người gốc Tây Ban Nha với độ tuổi trung bình là 48 tuổi.
Gần 30% những người được khảo sát cho biết họ đã bỏ một lần khám chăm sóc phòng ngừa trong vòng ba tháng, 26% cho biết họ đã bỏ một cuộc hẹn khám sức khỏe tổng quát, và 8% đã bỏ một cuộc hẹn khám sức khỏe tâm thần.
Những người tham gia khảo sát cho biết họ bỏ lỡ các buổi hẹn khám vì nhiều lý do, chẳng hạn như do cơ sở y tế đóng cửa tạm thời hoặc vĩnh viễn, do sợ tiếp xúc với COVID-19, và một tỷ lệ nhỏ đổ lỗi cho tài chính do đại dịch gây ra.
Thanh niên dưới 35 tuổi dễ bỏ qua việc uống thuốc theo toa hơn so với người cao niên trong cùng thời gian này. Cuộc khảo sát cho thấy số người bỏ lỡ việc uống thuốc theo toa trong độ tuổi từ 18-34 tuổi là 22%, so với những người từ 65 tuổi trở lên là 6%, và số người từ 35-49 tuổi là 16%.
Cuộc khảo sát cũng phát hiện ra rằng những người bỏ qua dịch vụ chăm sóc y tế không thay đổi theo giới tính, nhưng tỷ lệ người gốc Tây Ban Nha bỏ uống thuốc cao hơn so với người da trắng.
Tổ chức Ngăn ngừa Ung thư đã tìm thấy kết quả tương tự trong ba cuộc khảo sát về việc bỏ hẹn khám bác sĩ trong 18 tháng, đó là vào tháng 12/2020, tháng 05/2021, và tháng 01/2022.
Sau gần hai năm xảy ra đại dịch, số lần bỏ hẹn khám bác sĩ vào tháng 01/2022 đã tăng lên so với cuộc khảo sát trước đó vào tháng 05/2021, nhiều người cũng cho rằng họ sợ tiếp xúc với biến thể Omicron của virus corona.
Trong tháng 01/2022, cuộc khảo sát cho thấy khoảng 39% người trưởng thành từ 55 tuổi trở lên đã bỏ lịch khám trong thời gian xảy ra đại dịch, tăng từ 34% vào tháng 05/2021 và 30% vào tháng 12/2020.
Tuy nhiên, tỷ lệ người trẻ tuổi bỏ lỡ các cuộc hẹn cao hơn so với người cao niên.
Tổ chức bất vụ lợi có trụ sở tại Hoa Kỳ này cho biết trong một bản thông cáo báo chí rằng “Cứ mỗi một trong hai (50%) người trưởng thành ở độ tuổi 18-34 thường không khám bù cho các buổi khám đã bị bỏ qua. (So với 36% vào tháng 12/2020 và 45% vào tháng 5/2021).”
Nghiên cứu nêu trên còn cho thấy các nhóm thiểu số cũng thường bỏ lỡ các buổi hẹn khám của họ.
Báo cáo cho biết: “Số người Mỹ bản địa bỏ hẹn khám do đại dịch đã gia tăng đáng kể,” đồng thời cho biết thêm rằng 43% số người tham gia khảo sát đã bỏ hẹn bác sĩ vào tháng 01/2022, tăng lần lượt từ 34% và 30% trong các cuộc khảo sát trước đó.
“Trong các dân tộc được khảo sát, người gốc Tây Ban Nha đã bỏ lịch hẹn khám nhiều nhất (46%).”
Ngược lại, một hạng mục khác lại có sự cải thiện, đó là sức khỏe của trẻ em. Cuộc khảo sát đầu năm 2022 cho thấy các bậc cha mẹ đã và đang “thực hiện bù” lịch chủng ngừa và các buổi hẹn khám chưa hoàn thành trước đó của con mình.
Báo cáo nêu rằng “Cứ năm bậc cha mẹ thì có một người (tức 20%) cho biết con của họ đã bỏ lỡ lịch chủng ngừa do đại dịch,” đánh dấu mức giảm từ 26% vào tháng 05/2021.
Mở rộng chăm sóc hậu sản đến 12 tháng
Trong những năm gần đây, các nhà lập pháp của Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ đã nhận thấy tỷ lệ phụ nữ tử vong do sinh nở khá cao khiến nhiều tiểu bang phải thông qua các dự luật lập pháp để mở rộng phạm vi Bảo hiểm Hậu sản của Medicaid từ 60 ngày lên 12 tháng.
Theo CDC, hơn 4 trong số 10 ca sinh ở Hoa Kỳ là được Medicaid đài thọ (pdf).
Nhiều trường hợp tử vong liên quan đến thai kỳ có thể phòng ngừa được nếu người mẹ được chăm sóc trong thai kỳ và sau khi sinh nở. Tình trạng sức khỏe tâm thần, xuất huyết, bệnh tim, nhiễm trùng, và thuyên tắc huyết khối chiếm phần lớn các ca tử vong liên quan đến thai kỳ.
Theo báo cáo Tỷ lệ Sản phụ Tử vong của CDC được công bố vào tháng 03/2023, trong năm 2021, đã có 1,205 phụ nữ tử vong vì các nguyên nhân liên quan đến mang thai, tăng từ 861 ca vào năm 2020 và 754 ca vào năm 2019.
Trong năm 2021, trên toàn quốc, sản phụ gốc Phi Châu có tỷ lệ tử vong do sinh với 69.9/100.000 ca, cao hơn so với phụ nữ da trắng với 26,6/100.000 ca.
Năm nay, Montana, Mississippi, Missouri, South Dakota, Texas, Utah, Wyoming, và Alaska cùng với hàng chục tiểu bang khác đã khai triển kế hoạch mở rộng gói chăm sóc hậu sản Medicaid với hy vọng giảm số ca tử vong liên quan đến thai kỳ.
Tuệ Minh biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times