Cuộc giao thiệp giữa người Nam và mấy nước láng giềng từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 19
Phần đông người mình chỉ nhớ đến cuộc nội-thuộc nước Tàu và để ý đến tình-hình hiện tại, nên ít người ngờ rằng: dân-tộc Việt-nam đã là một dân tộc đi chinh-phục nước khác và đã đặt nền bảo-hộ ở một vài nước láng giềng. Vả lại, cũng rất ít người nghĩ đến rằng: ròng rã trong hai thế-kỷ, cái nước Thái-lan danh-giá ngày nay đã phải e-dè sợ-sệt người mình, và quân Xiêm đã nhiều lần bị quân Việt-nam đánh đuổi một cách hùng-dũng..
Muốn nhắc lại cho anh em thiếu-niên nhớ đến đoạn lịch-sử vẻ-vang ấy của tố-tiên ta, chúng tôi đã thu-tập ít nhiều tài-liệu để viết mấy trang này. Mong rằng các bậc thức-giả trong nước sẽ viết nhiều và nói rộng về vấn-đề này nữa, để người mình biết quí-trọng tổ-tiên và tự-trọng, tự-cường.
Trong bài này, chúng tôi không nói đến cuộc Nam-tiến mãnh-liệt của người mình đã từ bắc-bộ Trung-kỳ kéo xuống đất Nam-kỳ ngày nay và làm tiêu-diệt một dân-tộc có một nền văn-minh sán-lạn là dân-tộc Chiêm-thành. Chỉ xin nhắc lại rằng: bắt đầu từ thế-kỷ thứ 10 người Việt-nam đã chiếm tỉnh Quảng-bình ngày nay, mà năm 1697 thì đến tỉnh Bình-thuận bây giờ. Trong bảy thế-kỷ, dần dần như tằm ăn lá dâu, người mình đã làm tan cả một dân-tộc.
Nhưng, trước khi lấn-át hết nước Chiêm-thành, người mình đã dòm-rỏ sang nước Chân-lạp, tức là nước Cao-miên ngày nay, hồi ấy còn lan đến đất Nam-kỳ bây giờ. Vì phía nam xứ Trung-kỳ ngày nay, lúc-bấy giờ không thể trồng-trọt dễ-dàng nên người Việt-nam từ đầu thế-kỷ thứ 17 đã chen vào ở giữa bình-nguyên Prey-kor (tức là phía đông Nam-kỳ bây giờ) (1)
Năm 1620, vua Chân-lạp là Chey-Chettha II thấy con gái chúa Nguyễn Sài-vương là một trang tuyệt-sắc giai-nhân, xin cưới về làm hoàng-hậu. Từ đây, bắt đầu cuộc giao-thiệp của hai nước mà phần lợi hẳn là về người mình.
Năm 1623, người Tiêm-la (Xiêm) từ phía tây tràn vào Chân-lạp: Chúa Nguyễn cho quân ta sang đánh giúp, đuổi được người Tiêm ra ngoài bờ-cõi. Nhờ thế, Sài-vương mới xin cho người Nam được vào cày cấy và buôn bán ở miền Prey-kor, nhưng phải đóng thuế cho vua Chân-lạp. Đó là bước đầu cuộc xâm-chiếm của người mình !
Năm 1658, vua Châu-lạp Âng-Chan II (là con Chey-Chettha II với một người vợ Lào) không những là một bạo-chúa, mà lại còn là một kẻ bội-giáo, theo đạo Hời của người Chiêm-thành, lấy một người vợ Ma-lai, rồi cho người hai giống này đến ở đông trong nước, nên hai người cháu gọi Chey-Chettha II bằng chú nổi lên phản-nghịch; nhưng vì hai người này bị thua, phải đến nương nhờ bà hoàng-thái-hậu người Việt-nam là vợ góa của Chey-Chettha II. Bà này khuyên họ nên cầu-cửu đến chúa Nguyễn. Vì thế, chúa Hiền- vương mới cho 3,000 quân sang thàmh Oudong bắt sống Âng-Chan II và đuổi bọn người Chiêm-thành và Ma-lai ra khỏi bờ cõi. Vua Âng-Chan II phải giam ở Quảng-bình, rồi sau được tha, nhưng phải triều-cống chúa Nguyễn
Năm 1674, trong nước Chân-lạp lại có nội-loạn: một ông hoàng Chân-lạp là Âng-Non II (sử ta gọi là Nặc-Ông-Non) sang cầu-cứu chúa Nguyễn ở dinh Thái-khang (nay thuộc địa-phận Khánh-hòa) về đánh vua Âng-Chey (Nặc-Ông-Đài):
Hiền- vương sai hai ông Nguyễn-dương-Lâm và Nguyễn đình-Phát đem quân sang đánh giúp Âng Non; Âng-Chey phải bỏ thành chạy, chết ở trong rừng, Âng-Non II được làm vua ở Oudong.
Những năm 1675, em Âng-Chey là Âng-Saur (Nặc-Ông-Thu) nhờ có người Tiêm-la giúp đánh đuổi Âng-Non II, rồi lên ngôi, lấy hiệu là Chey-Chettha IV. Vi thấy Âng-Saur là dòng trưởng, nên chúa Nguyễn cho y làm vua ở Oudong, nhưng bắt phường Thủy Chân-lạp (Nam-ky) cho Âng-Non II làm đệ-nhị quốc-vương và đóng đô ở Sài-côn (Sài gòn).
Năm 1979, nhân có mấy vị quan nhà Minh ở Quảng-tấy là Dương Ngạn-Địch, Trần Thượng-Xuyên, Hoàng-Tiến, Trần An-Bình vì không muốn thần-phục nhà Thanh, đem 3,000 quân và 50 chiếc thuyền sang xin nhập tịch dân Nam, Hiền-vương liền cho họ vào lập-nghiệp ở đất Đông-phố (Gia-định) và Đồng-nai (Biên-hòa).
Năm 1688, Hoàng-Tiến là phó tướng của Dương Ngạn-Địch nổi lên đánh chủ đề cướp quyền. Chúa Ngãi – vương sai quân vào giết Hoàng-Tiến, rồi nhân tiện bắt Chey-Chettha IV phải triều-cống.
Năm 1698, chúa Minh-vương đặt chức Kinh-lược ở Thủy Chân-lạp, chia đất Đông-phố và đất Đồng-nai ra làm dinh, làm huyện, rồi sai quan vào cai-trị và cho người Nam vào khai khẩn.
Năm 1699, Chey-Chettha IV dấy binh chống với quân Nam. Minh-vương sai quan Nguyễn-hữu-Kính đem quân sang đánh. Chey-Chettha IV thua, phải bỏ thành chạy; sau về hàng và xin triều cống như cũ. Vì Âng-Non II đã thác từ năm 1691, Chey-Chettha IV phong cho con Âng-Non II là Âng-Êm (Nặc Ông-Yên) làm quan và lại cho làm phò-mã nữa.
Năm 1700, Chey-Chettha IV nhường ngôi cho phò-mã, để đi tu. Những năm sau, lại về trị-vì. Đến năm 1702, lại nhường ngôi cho con trưởng là Thommo (Nặc-Ông-Thâm).
Năm 1705, Thommo nghi cho Âng-Êm chủ tâm làm phản, bèn cất quân đánh và nhờ quần Tiêm-la sang giúp. Âng-Êm thua, phải sang cầu cứu chúa Nguyễn. Minh-vương sai ông Nguyễn-cửu-Vân sang giúp. Quân ta đánh tan được quân Tiêm-la, đuổi Thommo sang Xiêm, rồi cho Âng-Êm về làm vua ở thành Lê vek (La-bích).
Năm 1714, Thommo lại về đánh Âng-Êm, lấy thành Lê vek. Âng-Êm lại sang cầu-cứu chúa Nguyễn. Ông Trần-thượng-Xuyên, đô-đốc Phiên-trấn (Gia-định) và ông Nguyễn-cửu-Phú, phó tướng Trần- Điện (Biên-hòa) được lệnh sang đánh giúp. Thommo lại bị thua và một lần nữa lại trốn sang Tiêm-la. Âng-Êm lại nhờ người Nam mà giữ được ngôi báu.
Năm 1731, một người Lào điện-rồ xui dân Chân-lạp sát-hại người nước Nam. Chúa Minh-vượng tức-giận, liền chiếm đất Định-tường (Mỹ-tho) và đất Long-hồ (Vĩnh-long).
Năm 1736, Âng-Êm mất; con là Sothéa (Nặc-ông-Tha) lên nối ngôi.
Năm 1748, Thommo lại ở Tiêm-la về, đánh đuổi Soothéa và cướp ngôi vua. Nhưng chẳng bao lâu, Thommo mất. Vì mấy người con của Thommo tranh nhau, chúa Võ-vương sai Ông Nguyễn-hữu-Doãn sang đánh họ và lại lập Sothéa làm vua. Được vài tháng, Sothéa bị người con thứ hai của Thommo là Âng-Snguôn (Nặc-Nguyên) đem quân Tiêm-la về đánh đuổi đi, Sothéa chạy sang Gia-định cầu cứu, nhưng mất ở đấy.
Vì Âng-Seguôn giao thiệp với chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Võ-vưong sai ông Nguyễn Cư Trinh sang đánh Âng Snguôn.
Âng Soguôn thua, phải bỏ thành chạy sang Hà tiên, nhờ con Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ. Muốn tạ tội với chúa Nguyễn, Âng Snguôn xin dâng hai phủ Tầm bôn và Lôi lạp (?).
Khi Âng-Snguôn mất, trong hoàng-tộc lại tranh giành nhau. Võ-vương liền sai Ông Trương-phúc-Du sáng giúp ông hoàng Ontey II (Nặc-Tôn) đánh đuổi các ông hoàng khác. Ontey II lên làm vua, dâng cho chúa Nguyễn những đất bây giờ thuộc về các tỉnh Sa-đéc, Châu-đốc,Trà-vinh, Sóc-trăng.
Từ năm 1760, đắt Thủy-Chân-lạp thuộc về địa-phận Nam-kỳ ngày nay đã về tay người Nam mình cả.
Năm 1771, vua Tiêm-la là Trịnh-quốc-Anh (người Tàu) đem binh thuyền sang đánh Hà-tiên. Mạc-thiên Tứ thua, phải chạy về Châu-đốc. Chúa Huệ-vượng liền sai Ông Nguyễn cửu-Đàm đem quân sang thành Nam vinh (Nam-vang) đánh quân Tiêm-la. Quân Tiêm-la thua, phải bỏ chạy.
Song bắt đầu từ năm 1772, chúa Nguyên phải đánh nhau với Tây-sơn, không thể trông-nom đến Chân-lạp được. Cho nên người Tiêm-la nhân cơ-hội ấy, lần lần chiếm nhiều đất-đai của Chân-lạp. Thế-lực của Tiêm-la ngày một to, đến nỗi khi Nguyễn-vương Phúc-Ánh bị Tây-sơn đánh thua ở Sài-côn, phải sai ông Chu-Văn-Tiếp sang nước họ để cầu cứu rồi lại thân sang tận Bangkok (Vọng-các) để xỉn binh cứu-viện. .
Nhưng, khi tướng Tiêm-la đem 300 chiếc thuyền và 2 vạn quân sang giúp Nguyễn-vương, ông Nguyễn-Huệ đánh cho một trận kinh-hồn ở Rạch-gấm và Xoài-mút (gần Mỹ-tho): hai vạn quân Tiêm-la tan nát, chỉ còn vài nghìn người cắm cổ mà chạy lấy thân (1785) !
Năm 1807, vua Chân-lạp là Âng-Chan III (Nặc-Ông-Chân) thấy vua Gia-long đã thu-phục được giang-sơn của chúa Nguyễn và thống-nhất cả Bắc, Nam, 1iền không chịu thần-phục vua Tiêm-la nữa và xin triều cống hoàng-đế Việt-nam. Cứ ba năm một lần, vua Chân-lạp theo lệ cống-tiến những thứ này :
Voi đực cao năm thước hai con. Tê-giác hai cái. Ngà voi hai cái. Sa-nhân năm-mươi cân. Đậu-khấu năm-mươi cân Hoàng-lạp năm-mươi cân. Cánh-kiến năm-mươi cân. Sơn đen hai-mươi lọ.
Năm 1811, ba người em của Âng-Chan III muốn cướp ngôi của anh, sang nhờ người Tiêm-la bắt anh phải chia đất. Âng-Chan III không nghe, nên bị người Tiêm-la đến đánh phá kinh-đô, phải chạy sang Tân-châu-đạo (Tiền-giang) cầu-cứu dân Việt-nam. Ông Nguyễn-Văn-Nhân, tổng-trấn Gia-định, tâu vua xin can-thiệp. Vua Gia-long cho sứ đưa thư trách chính-phủ Tiêm-la. Vua Tiêm-la sai sứ phúc-thư nói là vì muốn giảng-hòa cho anh em vua Chân-lạp, chứ không có ý xâm-chiếm, vậy triều-đình Việt-nam muốn xử thế nào, Tiêm-la cũng sẽ vâng theo. Cho nên năm 1813, tả-quân Lê-văn-Duyệt được lệnh đem một vạn quân sang đưa Âng-Chan III về thành Oudong. Quân Tiêm-la rút lui nhưng chiếm mấy tỉnh Tonlérepeou, Melouprey, Stung-Treng. Những tỉnh đó, mãi đến năm 1894 và năm 1904, người Xiêm mới trả cho nước Pháp (2).
Từ đây đến hết triều Gia-long. Chân-lạp vẫn ở dưới quyền người mình. Ông Lê-văn-Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam-vinh (Phnom-Penh). Vua Gia-long lại sai tướng-quân Lê-văn-Thụy đóng quân ở ngay thành đó đề bảo-hộ cho Chân-lạp.
Từ năm 1815 đến năm 1816, vua Gia-long có nhờ người Chân-lạp đào cái kênh Vĩnh-tế, từ Châu-đốc đến Hà-tiên, chủ-ý muốn để tiện việc chống với người Tiêm-la.
Thấy thế, người Tiêm-la càng cắm-giận. Nhưng vì họ sợ thế-lực triều Nguyễn, không dám sinh-sự, chỉ thỉnh-thoảng sang bắt nạt các nước nhỏ ở địa-phận Ai-lao ngày nay mà thôi.
Về thế-kỷ thứ 18, xứ Lào đã chia ra làm bốn nước:
1) Nước Louang-Prabang (sử ta gọi là Nam-chưởng hay Lão-qua);
2) Nước Trấn-ninh (nguyên là đắt Bồn-man, vì xin nội-thuộc nước ta, nên đổi làm châu Quy-hợp, sau lại đồi ra làm phủ Trấn-ninh) (3) ;
3) Nước Vientiane (Viên-chân);
4) Nước Bassac (Chàmpasak).
Từ thế-kỷ thứ 17, vua nước Lan-Xâng (sử ta gọi là Vạn-tượng) tên là Souligna Vongsa làm rể vua Lê-Thần-Tông đã nhường cho vua Lê phía đông Trấn-ninh chỗ nào có nhà không sàn và không hiên là thuộc về đất nước Nam. Đến thế kỷ thứ 18, Trấn-ninh không thuộc về nước Lan-Xâng nữa, nhưng vẫn theo lệ triều cống vua nước Nam.
Năm 1806, vua Vientiane là Chao-Anou (Sử ta gọi là A-Nộ) vừa mới lên ngôi đã xin thần-phục vua Gia-long
Năm 1826, vua Anou tưởng là Tiêm-la có việc khó-khăn với Anh-cát-lợi, cất ba đạo quân sang đánh nước Tiêm. Nhưng đại-tướng Tiêm-la là Chao-khun-Bodyn đem đại-đội sang phá tan thành.Vientiane Anon cầu-cửu vua Minh-mạng.
Triều-đình Huế sai ông Phan-Văn-Thúy sang giúp Anou. Nhưng Anou không lấy lại được nước, phải theo quân ta về nghệ-An đề tìm cách bảo-thù.
Năm 1828, Anou họp được một đạo quân Lào, xin cho quân ta đưa về nước. Vua Minh-mạng sai các ông Phan-văn-Thúy, Nguyễn-văn-Xuân và Nguyễn-Khoa-Hào đem 24 con voi và ba nghìn quân đưa Anou về Trấn-ninh. Đến đó, Anou xin tự đem quân Lào về Vientiane, nhưng bị quân Tiêm-la đánh thua, quân-sĩ chết rất nhiều. Anou lại sai người sang nước Nam cầu-cứu, nhưng vua Minh-mang thấy y là người hay sinh chuyện, không cho người sang cứu nữa. Anou bị thua, chạy trốn sang Trấn-ninh, nhưng quốc-trưởng xứ Xiêng-Khouang là Chao-Noi (Chiêu-nội) bắt lấy, đem nộp cho người Tiêm-la (năm 1831).
Đánh được Anou, quân Tiêm-la lại tràn cả sang nước Nam, vào vùng Quảng-trị. Vua Minh-Mạng sai ông Phạm-văn-Điển đem ba đạo quân ra chống giữ. Ông Phạm-Văn-Điển cho người đem thư sang trách Tiêm-la. Tướng Tiêm-la thấy quân Nam binh hùng tướng mạnh, phải rút quân về. Vua Minh-Mạng thấy Chao-Noi nộp Anou cho Tiêm la, tức lắm, liền cho quân sang bắt Chao-Noi về kinh thành Huế đề trị tội. Còn đất Trấn-ninh thì sáp nhập vào đất nước Nam (4).
Hồi ấy, một phần lớn đất đai về xứ thượng Ai lao cũng thuộc về Việt Nam cả; các tỉnh Sầm Nứa (Sam-nega) Trấn-Ninh, Caumon, Savannakhet bấy giờ hồi ấy là của người mình cả. Từ năm 1831, cả nước Luang Prabang cũng chịu thần phục vua Việt Nam.
Năm 1833, Lê-văn-Khôi (tức Nguyễn hữu Khôi) khởi nghịch ở Nam kỳ, có cho người sáng cầu cứu Tiêm-la để chống lại với triều đình Huế. Người Tiêm cho năm đạo quân sang đánh nước ta; hai đạo quân sang đánh nước ta; hai đạo ở phía nam (Hà tiên-Châu đốc, An giang) và ba đạo ở phía bắc (Quảng trị. Cammon, Trấn-ninh).
Vua Minh-mạng liền sai ông Trường-Minh-Giảng và ông Nguyễn-Xuân đi tiến-tiễu ở phía nam; còn việc giữ phía bắc thì giao cho các ông: Phạm-văn-Điển, Lê-văn-Thụy và Nguyễn-văn-Xuân.
Ở phía bắc cũng như ở phía nam, quân ta đều đánh tan quân giặc. Trong các trận thủy-chiến cũng như lục-chiến, quân Nam đều đại thắng. Về phía nam, hai ông Trương-minh-Giảng và Nguyễn-Xuân không những đuổi quân Tiêm ra khỏi Nam-kỳ, mà lại còn đuổi họ đến thành Phnom-Penh (Nam-vinh) và Pursat (Phú-túc) nữa.
Sau cuộc khải-hoàn rực-rỡ ấy, Vua Minh-mạng cho ông Trương-minh-Giảng và ông Lê-Đại-Cương lập đền ở Phnom-Penh để đặt cuộc bảo-hộ Việt-nam trên nước Chân-lạp.
Đến năm 1834, vua Âng-chan III thăng-hà, nhưng không có hoàng nam. Hai người em là Âng-Êm (Nặc Ông Yên) và Âng-Duông (Nặc-Ông-Đôn) lại là những kẻ bội-nghịch, nên ông Trương-minh-Giảng xin với vua Minh-mạng phong cho con gái Âng-Chan III là Âng Mey (Ngọc-vân công-chúa) làm quận-chúa.
Nhưng thực ra quyền-bính ở trong tay Trương-minh-Giảng cả. Nước Chân-lạp từ đó đổi là “Trấn-tây thành”
Năm 1940, vua Minh-mạng sai ông Lê-văn-Đức sang hợp-lực với ông Trương-Minh-Giảng để cai-trị Chân-lạp. Các việc kinh-tế, thuế-má, đạc-điền, võ-bị, phong-tục, nhất nhất đều theo Việt-nam cả.
Song, quan-lại của ta không có cái kinh-nghiệm của những nhà đi thực-dân, và lại làm nhiều điều nhũng-nhiễu, nên dân-tình rất ai-ón. Thậm-chí lại đẩy cả quận-chúa Âng-Mey cùng hoàng-tộc sang Gia-định nữa !
Vì thế, dân Chân-lạp óan-giận, ngầm sai người sang Bangkok (Vọng-Các) cầu cứu Tiêm-la và mời ông hoàng Âng-Duông về nước. Lúc bấy giờ Âng-Duông thì ở Bangkok mà Ang-Êm thì ở Huế.
Năm 1841 (tức là Thiệu-trị nguyên niên), tướng Tiêm-la là Chau-khun-Bodyn đem quân sang Oudong đề lập Âng-Duông làm vua, nhưng bị quân Việt-nam đánh ở Hà-tiên, ở Châu-đốc và ở ngay Chân-lạp. Tuy vậy, quân Tiêm-la vẫn không chịu rút lui.
Hồi ấy, ở trong triều có bọn ông Tạ Quang-Cự thấy ở miền Chân-lạp và miền Nam-kỳ có nhiều giặc-giã mà quan-quân đánh mãi không được, mới tâu vua xin cho quân ta bỏ đất Chân-lạp mà rút về An-giang.
Người Tiêm-la thấy quân Nam đi khỏi, vội-vàng đến chiếm ngay Phnom-Penh.
Về đến An-giang,ông Trương-Minh-Giảng buồn-bực vì những việc xảy ra đến nỗi thành bệnh mà mất 1842
Năm 1845 các ông Vũ-văn-Giải, Nguyễn-tri-Phương, Doãn-Uẩn, Tôn thất-Nghị lại tiến binh sang Chân-lạp, lấy lại được thành Phnom. Penh Quân Tiêm-la lại một phen thua
Quan ta liền lên đánh thành Ouong nhưng người Tiểm xin hòa.
Tháng một năm 1845, các tướng Việt-nam và Tiêm-la hội- họp ở Popey để định việc giải-binh. Năm 1846, hai nước ký tờ hòa-ước.
Vì Âng-Êm đã mất từ năm 1843 và Âng-Duông đã dâng biểu tạ-tội với Triều-đình Việt-nam, nên năm 1847, vua Thiện-Trị phong cho Âng-Duông làm Cao-miên quốc-vương và xuống chiếu cho quân ta ở Trấn-tây-thành (Chân – lạp) rút về An-giang cả.
Âng-Duông chính là thân phụ vua Norodom, người đã ký điều-ước với nước Pháp để đặt nước Cao-miên dưới quyền bảo hộ của người Pháp.
Dưới Triều Tự Đức, vì nhà vua bận đối phó với những việc tầy đình ở ngoài đem tới, nên không còn có thì giờ nghĩ đến việc các nước láng giềng. Cho nên cái hoài bão của những người thức thời, như Nguyễn Trường Tộ tiên sinh mong cho nước ta “mở mang sang đến phía tây giải núi Trường sơn” (5) và mong “cái giang sơn ở hai bên sông Cửu Long giang sẽ là nơi cư trú của dân tộc ta” (6) chỉ là một ảo mộng, chỉ là một cái bóng sà phòng rực rỡ trăm màu bị tan trong nháy mắt !.
Ngày nay, thấy địa vị của nước Thái lan trên bản đồ của thế giới, thấy cách cư xử nhã nhặn của các cường quốc đối với một nước trước kia đã nhiều lần khuất phục trước những toán quân hùng dũng của ta, không biết có những ai còn hồi tưởng đến cái thời kỳ oanh-liệt của tổ tiên ta ? Có những ai biết nghiệm cái bài học ấy của lịch sử mà xét đến cuộc sinh tồn của các dân tộc?
TỪ NGỌC
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Có quyển sử gọi miền ấy là Mô-xoài và Đồng nai, tức là Bà rịa và Biên hòa bây giờ. Cũng có quyển sử lại gọi miền ấy là Mũi xôi và Đồng nai. Vậy xin chất chính cùng độc giả.
2) Theo Việt-Nam Sử-lược của Trần-trọng-Kim tiên-sinh, thì khi ấy người Tiêm-la “lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc-tầm-bôn (Battambang), nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc-Ông-Chân. Lê- Văn-Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm-la về điều ấy, quân Tiêm mới rút về” (V. N. S. L. quyển hạ, trang 162).
3) Từ năm 1479, vua Lê-Thánh-Tông đã sai quân đi đánh Lão qua và Bồn-man và quân ta đã toàn thắng một cách vẻ-vang.
4) Theo Trần-trọng-Kim tiên-sinh, thì “năm Đinh-hợi (1827), người Nam-chưởng (Luang-Prabang) thông với Tiêm-la, rồi cứ đem quân xuống quấy-nhiễu đất Trấn-ninh, Tù-trưởng là Chiêu-Nội xin đem đất Trấn-ninh về nội-thuộc Việt-nam. Vua Thánh-Tôn phong cho Chiêu-Nội làm Trấn-ninh phòng-ngự- sứ, cai-quản cả bảy huyện. Lại phong cho những thổ-mục làm thổ tri-huyện và thổ huyện-thừa. Chiêu-Nội dâng sổ dân đinh và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và 28 sở ruộng” (Việt-Nam Sử-lược, quyển hạ, trang 201).
5) Nguyễn Trường Tộ, trang 41