Một bài thơ cổ về bà Trưng (số 1)
Nhân hội đền hai Bà Trưng ở làng Đồng-nhân (Hà-nội), vào mồng năm tháng hai, tôi sao lại một bài thơ soạn vào cuối đời nhà Lê, khoảng năm 1787-1800, để kỷ-niệm hai đấng liệt-nữ đã dựng cờ độc-lập, trước nhất ở ngày xưa. Bài thơ này lấy trong quyển Thiên-Nam ngữ-lục ngoại-kỷ của Trường Bác-cổ (số AB 478 từ tờ 24a). Sách viết bằng chữ nôm (dưới có một đoạn chữ nho) thuật truyền từ đời Kinh-dương vương đến năm Chiêu-thống đinh-mùi (1787) tất cả 184 tờ, giấy khổ trung, chữ viết nhỏ.
Nội những bài thơ nói về Bà Trưng, có lẽ không bài nào dài bằng bài này; dài mà thôi, chứ không xuất-sắc gì: lắm câu lại xuất-vận. Tuy vậy, cũng nên in ra quốc-ngữ để giữ lấy một ít tài-liệu về cổ-ngữ và sử-học. Riêng về sự-tích Bà Trưng có những vấn-đề sau này chưa giải-quyết:
1 – quyển Đại-Việt sử-ký tiền-biên (9.3, tờ 4b) và quyển Khâm-định Việt-sử thông-giám cương-mục (tiền biển 9.2, tờ 10a) chép Tô-Định “chính-sách thâm-độc, giết chồng bà”. Một giáo-sư Pháp tên là Henri Maspero viết trong tập kỷ-yếu Trường Bác-cổ (9, XVIII, số 3, trang 13) rằng “bà rủ chồng bà” đi đánh Tô-Định (entrainant son mari). Đằng nào phải ?
2 – Bà lấy lại được 65 thành hay 50 thành ?. Đại-việt sử-ký lúc thì chép là 6 thành (9 8, tờ 4 b), lúc thì chép là 65 (9.3, tờ 6a). Việt-sử cương-mục (9. 2, tờ 10a) cũng chép 65 thành.
3 – Lãng-bạc nay là Hồ Tây ở Hà-nội hay Tiên-du ở Bắc-ninh ? Việt-sử cương-mục (9.2, tờ 11a) chua “Lãng-bạc có một tên nữa là Dâm-đàm, ở phía tây con đường là thành Đại-la; đời Lê đôi tên là Tây-hồ, nay là Hồ-Tây tỉnh Hà-nội” Thủy kinh chú
(9.37, tờ 7b) lại cho là vùng Tiên-du (xem bài L`expedition
de Ma Yuan của ông H. Maspero trong Bulletin de l’Ecole française de d’Extrême-Orient, 9. XVIII, số 3, trang 16 và 17).
Còn nhiều việc nữa, nhưng trong bài thơ ở tập Thiên-Nam ngữ-lục ngoại-kỷ chép khác hẳn.
Dù thế nào chăng nữa, đối với những việc đã cách đây hơn 1.900 năm, nên đem các tài-liệu ra nghiên-cứu lại; bởi thế tôi sao lại đoạn dã-sử này đề độc-giả so-sánh với những sách của các sử-thần.
I – Bắc-biên ngoài cõi Chu-diên,
Vô-giàng huyện ấy sinh nên một người,
Tên là Thi-Sách có tài,
Dòng-dõi đời nhà con cháu Hùng-vương,
Trọn thời lễ nghĩa cương thường,
Chẳng muốn suy-phục mở-mang nghề nhà.
Còn lo Tô-Định gian-tà,
Đặt cơ chưa dám hở ra sự tình.
II – Đồn rằng trên quận Mê-linh,
Họ Trưng dòng-dõi trổ sinh đôi nàng.
Phong tư khác thói tầm-thường,
Tóc mây lưng tuyết hơi hương da ngà.
Bướm ong chưa dám gần hoa,
Trắc là chị cả, Nhị là em hai.
Gồm no văn vũ mọi tài,
Bề trong thao lược, bề ngoài cung tên,
Một trăm sắm sửa trọn nghìn,
Mười tám dòng truyền võ nghệ lầu thông.
Trọn bề nhan sắc má hồng,
Mĩ-miều đã lọt trăm vòng Hằng-nga.
Dòng nhà Lạc-tướng sinh ra,
Tuổi nửa đôi tám còn hòa thiếu đối.
Muốn vàn điệp-sứ ong-môi,
Chọn chẳng được người kế tuyệt phù nguy
Tơ hồng còn lạ chưa xe,
Còn giăng gác núi, còn hoa bén cành,
Giận thằng Tô-Định gian-manh !
Khỏi rừng hùm dẫu cậy mình mạnh chi !
Ngậm hèn phải phận nữ-nhi,
Lu-lê ai kẻ khẳng vì nghe theo ?
Vật gì giống bọ đầu trâu,
Vẫy ai một phút lầu-lầu quét thanh
III – Sách cho môi-ước đến trình,
Dẫn dòng Lạc-tướng bày tình ông cha.
Rắp mong gây dựng nghiệp nhà,
Hiềm trong chủ-quĩ chưa hòa có ai.
Tình-cờ trong có một người.
Phúc đội ơn giời sức mới được dân.
Kẻo còn khúm-núm khuất-nhân,
Hùm thiêng lần-lữa ẩn thân non tàng.
IV – Trắc-nương nghe biết than rằng:
“Nước Nam ngỡ những ở sòng như ta !
Chẳng ngờ có kẻ lo xa,
Trong cơ-hội ấy có ta càng màu.
Vốn ta ý rắp đã lâu,
Được người hào-kiệt cùng nhau vẫy-vùng.
Ra đời nên kẻ anh-hùng,
Xá sao học thói vợ chồng kẻ quê.
Lấy nhau ăn ở lờ-cờ,
Lẩn-thân đi về ngõ xã làng dân.
Lấy làm đắc thủ an dân,
Hôm sớm lo cầu buôn bán ngược xuôi.
Định kỳ chọn sự lan-giai,
Giá-thú luận tài Di-địch thói quen.
Ta cùng Thi-Sách kết duyên,
Trọn sự người hiền ăn ở cùng nhau.
Miễn là trọn vẹn gót đầu,
Chớ trì sự ấy cho mau việc làm ”
V – Từ thông hòa hảo bắc nam.
Một nhà phu phụ nghìn năm kết nguyền.
Vợ chồng mừng thắm nhân-duyên,
Toan đương mở nước dựng nên nghiệp nhà.
Phiên hầu lần-lữa đề qua,
Tô-Định lòng ngờ Thi-Sách phản mưu.
Người ta nói khéo bảo nhau,
Rằng người Sách lấy hai hầu họ Trưng
Nữ-tài có sắc khác hằng,
Của nên vô giá xem bằng thần tiên.
VI – Từ ấy Tô-Định nghe tin,
Biết rằng con gái thuyền-quyên tốt vời,
Thi-Sách nên đứa dễ ngươi,
Chẳng lòng cung kính kết đôi vợ chồng.
Nó toan làm sự gian-vòng,
Trước liệu ra lòng, phương trần truyên binh.
Toan lo làm sự chẳng lành,
Nín hơi chẳng thấy đem mình đến đây.
Lâu ngày cỏ mọc cánh bay,
Rẽ dầu khôn thấu, gốc lay khôn rời.
VII – Binh quí thần-tốc chớ sai,
Ra khi bất ý vào nơi vô-tình.
Định binh đến Chu-diên thành,
Nghìn vàng sao chuộc lấy mình họ Thi.
Tìm lấy Trắc-nương đem về,
Nghìn vàng kiến tại phân chia trong ngoài.
Tô Định trong có một người,
Biết tin bảo Sách mọi nhỡi vân vân.
Hay tình Sách mới ra quân,
Lối đường gia giữ nẻo ngăn đi về.
Tô binh sắm-sửa kíp đi,
Vũ-ninh chốn ấy bốn bề bọc tươi.
VIII – Sách rằng: “chẳng có mỗ nhời,
Những sự nghe người, bắt bọ bỏ tai,
Tướng-quân nhân nghĩa khắp đời,
Di-thần sao dám chống người nhà vua ?”
Định rằng: “Người chở hèn lo,
Có mặt bướng phè, vắng mặt hung-hằng !
Ấy người làm sự bất-bằng,
Đâu mà chẳng biết, lọ rằng mới hay”
Sách rằng : Nhời ấy oan thay !
Việc nhà phương trở, nên rày chửa ra”
Định rằng: “Ngươi, đứa gian-tà,
Nghe chước đàn-bà làm sự bất-trung !
Tôi, ngươi ở chẳng hết lòng,
Hai gái má hồng dùng lấy kết duyên
Toan nhau làm sự nghịch thiên,
Biết tin tao đến Chu-diên thăm tình”
Sách rằng: Tao ngỡ hiền-lành,
Lấy ân vỗ chúng để danh đãi hiền.
Chẳng ngờ ra dạ muông chim,
Phen này lỗ lược tìm đi hai kiều.
Đôi Trưng tao vốn của yêu,
Đầu mày muốn đổi, tao liền bớt cho !”
Định rằng: “Thằng rợ Giao-châu,
Nói nhời hiểm độc, ruột đau như dần !”
IX – Đem lòng hờn giận thấm ngầm,
Mình lên cột-ngựa hăm-hăm xông vào.
Thi-Sách lòng cực xiết-bao !
Tay cầm bảo-kích giáp nhau chém hoài.
Được thua ai có nhường ai,
Kể trăm vào thốc, động ngoài bốn phương.
Sách binh thế nhạt khôn đường,
Giời nhường chưa giúp, thần nhường chưa vâng:
Sách quân sợ dạ bập-bầng,
Đảo qua ai nấy tìm đường về dinh.
(Còn nữa),
Ứng hòe-NGUYỄN VĂN TỐ sao lục