Sắc văn của vua Gia Long phong đức Bá đa lộc (Évêque d`Adran) tước Thái từ Thái phó Bi nhu quận công
Dịch âm
Sắc viết.
Triết nhau ư tri-kỷ, cố bắt viễn thiên lý nhi lai;
Hảo hội chính tương-thân, hựa hà nhẫn nhất triêu nhí thệ. Diến tư cựu đức;
Tái bí tấn ân.
Phú-lãng-sa quốc cố đặc-sai đạt mạnh điều-chế chiến tàu thủy bộ viện binh Giám-mục Bá-đa-lộc thượng sư..
Tây thổ vĩ nhân,
Nam triều thượng khách.
Tổng giốc nhật, hạnh phùng giai khế, chí khí giao phu;
Thảo muội thi, cận tiếp đức âm, tuân tự thực lại.
Ngẫu trị quốc gia đa nạn, dư thi đinh Hạ-Thiếu chi khi-khu.
Phiên giao thiên hải lưỡng kỳ, công doãn địch Hàn-chừ chi a-bảo.
Tuy vãng tố ngôn hài vu tông quốc, đặc dĩ binh lai viện, bán đồ nhi sự dữ tâm vi;
Nhiên đồng cừu nghĩ tác vu cổ nhân, ninh vị nghĩa tương qua, cộng hội nhi mưu thừa hấn phát.
Mậu-thân phản cố bang chi bái, chính vọng hảo âm; Canh-tuất phu Đông-phố chi chu, gi đôn tin ước.
Tốn ngôn thi phục, chinh dưỡng mông chi sư đạo vưu nghiêm;
Tấn tiếp nhật thường, long chửng hoán chi kỳ mưa dũ xuất,
Đạo đức trong đàm tiếu, nghĩa kỷ khế vu hạp trâm; Phong trần ngoại kinh doanh, tình vưu phu vu liên bí.
Thủy-chung chi chân tâm bất nhị; Bình-sinh chi kỳ ngộ quân hoan.
Dân kỳ lịch quá niên hoa, vĩnh vi hiếu dã; Thùy liệu trần mai ngọc thụ, tĩnh ngôn tư chi.
Viên tặng vị Thái-tử Thái-phó Bi nhu quận-công thụy viết Trung ý,
Dĩ chương thạc đức chi u-hình; Dĩ biểu gia tân chi vĩ-tĩch.
Y hi !
Khách tinh nhất vẫn, Thiên-đường chi khứ nan lưu;
Hoa cổn vinh bao. Ngụy khuyết chi tinh hạt khánh.
Ê công lính-sảng. Mộc ngã sủng quan. Có sắc.
Cảnh-hưng lục thập niên, thập nhất nguyệt, thập nhị nhật.
Dịch nghĩa
Sắc rằng: Bậc hiền-triết đối kẻ biết mình, chẳng quản xa-xôi nghìn dặm;
Cuộc gặp gỡ chính đường thân-mật, nỡ đâu thác bỏ một khi. | Nhớ đức cũ xưa; nay ban ân mới
Đức Thượng-sư Giám-mục Bá-đa lộc, đặc phái của nước Phú-lãng-sa để điều-chế chiến thuyền cùng thủy lực cứu viện quân.
Vốn giòng Tây-thổ vĩ-nhân; là bậc Nam-triều thượng khách.
Ta thơ trẻ, gặp cùng bạn tốt, chí khí hòa hai. Thời loạn-li, gần tiếp đức-âm, hỏi nhau nhờ cậy:
Chẳng may gặp nước nhà đa nạn, ta như Hạ-Thiếu đương lúc khi khu;
Chợt xay khi trời biển đôi nơi, người giúp Hán-chừ, xứng công a-bảo.
Trở về Pháp-quốc, cầu quân cứu-viện, tuy nửa đường, việc chẳng như lòng;
Theo dấu cổ-nhân, vị nghĩa đồng cừu, muốn cùng hội, mưu rồi thừa hấn.
Năm mậu-thân (1788), cờ vừa trở lại cố bang, những mong tin-tức;
Năm canh-tuất (1790), thuyền lại gặp bơi Đông-phố, bền giữ ước xua.
Ngôn từ khoan-nhã, dưỡng mông sư-đạo càng nghiêm;
Giao-tiếp thường ngày, thao lược kỳ mưu hằng lạ.
Khi luận bàn đạo-đức, nghĩa đã cùng khăng-khít hạp-trẫm;
Buổi lận-đận phong-trần, tình lại hợp đinh-ninh liên-bí.
Trước sau một bụng; gặp gỡ đều vui.
Những mong thọ hưởng tuổi trời, lâu dài vui-vẻ;
Nào ngờ cây ngọc vùi đất, thổn-thức nhớ thương.
Vậy nay, tặng phong Thái tử Thái-phó Bi-nhu quận-công thụy Trung-ý.
Để: rõ rệt u hình đức lớn; để: biểu dương vĩ tích khách sang.
Thương ôi !
Khách tinh bóng lặn, lánh Thiên-đường khôn nỗi nài lưu;
Hoa cổn nhời phong, tình Ngụy khuyết biết bao xiết kế !
Linh sảng có hay; Ân quang nhận lấy.
Nay sắc.
Năm Canh-hưng thứ 60, ngày 20 tháng một (1799).
Thúc-ngọc TRẦN VĂN GIÁP dịch