Một nghiên cứu tìm ra cách phát hiện polyp đại tràng an toàn hơn

Dấu ấn vi sinh đặc trưng của polyp đại tràng tiền ung thư có thể đưa đến xét nghiệm hiệu quả và ít rủi ro hơn

Một nghiên cứu mới được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Viện Broad của MIT và Harvard, Trường Y khoa Harvard và Bệnh viện Đa khoa Massachusetts cho thấy, có mối liên hệ giữa polyp đại tràng tiền ung thư và các vi khuẩn đường ruột đặc trưng.

Được công bố trên Tập san Vật chủ Tế bào và Vi khuẩn, nghiên cứu so sánh mẫu phân và kết quả nội soi đại tràng của 971 người tham gia. Các mẫu phân được coi như ảnh chụp tức thời vi hệ đường ruột – cộng đồng vi khuẩn, virus và nấm sống chủ yếu ở đại tràng.

Nghiên cứu cho thấy một dấu ấn vi khuẩn khác biệt ở những người có u tuyến ống và u tuyến răng cưa không cuống – hai loại tổn thương đại tràng được coi là tiền ác tính. Một trong những nghiên cứu lớn nhất thuộc loại này phát hiện 19 loài vi khuẩn khác nhau đáng kể ở bệnh nhân có u tuyến ống và 8 loài khác nhau đáng kể ở bệnh nhân có u tuyến răng cưa không cuống.

Phát hiện này cho thấy, xét nghiệm phân đơn giản có thể giúp giảm thiểu số lần nội soi đại tràng mang tính chất xâm lấn và nguy hiểm.

Nghiên cứu cũng đặt ra câu hỏi, liệu vi khuẩn – ở dạng bổ sung men vi sinh hoặc thuốc viên – có thể trở thành phương pháp thứ ba, bên cạnh ăn uống và thuốc men, để giảm nguy cơ ung thư đại tràng hay không.

Tiến sĩ Daniel C. Chung, đồng giám đốc y tế của Trung tâm Đánh giá Rủi ro Ung thư tại Trung tâm Ung thư Tổng quát Mass, nói với The Epoch Times rằng, “Mục tiêu cuối cùng là xác định xem loài vi khuẩn nào có thể dùng để gây tác động đến kết quả điều trị của bệnh nhân. Một cách tiềm năng khác là nghiên cứu xem liệu có thể áp dụng điều này như một phép chẩn đoán hoặc đánh giá rủi ro hay không.”

Kết quả này có thể thay đổi mạnh mẽ phương pháp phát hiện sớm ung thư đại trực tràng, loại ung thư phổ biến thứ ba và đang gia tăng ở các nước đang phát triển, và gần đây là ở người trẻ tuổi. Theo Viện Ung thư Quốc gia, khoảng 18,000 người dưới 50 tuổi được chẩn đoán bị ung thư đại trực tràng ở Hoa Kỳ vào năm 2020. Các xu hướng tương tự được ghi nhận ở Canada, New Zealand, Úc và một số khu vực châu Âu và châu Á.

Nội soi đại tràng – là thủ thuật xâm lấn có thể cần đến thuốc gây mê, được khuyến nghị cho người trưởng thành ở độ tuổi 45 – là tiêu chuẩn vàng để phát hiện ung thư đại trực tràng. Nội soi có những tác dụng phụ và rủi ro nhất định, khiến một xét nghiệm đơn giản hơn sẽ trở thành lựa chọn thay thế hấp dẫn. Tiến sĩ Chung cho biết, nghiên cứu này tạo cơ sở để xét nghiệm phân được coi như công cụ giúp nhận định một người có cần nội soi hay không.

Tại sao vấn đề polyp lại quan trọng

Polyp – khối u phát triển từ các cụm tế bào bất thường – vẫn còn là bí ẩn trong giới y học. Không rõ nguyên nhân tại sao polyp đại tràng lại phổ biến ở những người từ 45 tuổi trở lên và người thừa cân, tiểu đường, có tiền sử gia đình mắc polyp, dùng thuốc lá hoặc bị một số bệnh về đường tiêu hóa như bệnh Crohn và viêm loét đại tràng.

Có thể mất nhiều năm để một polyp trở thành ung thư nếu có, và đó là lý do tại sao nội soi được cho là lựa chọn tốt nhất để phát hiện sớm tình trạng bệnh.

Tiến sĩ Chung cho biết, “Hiểu biết về polyp là cách quan trọng để tác động đến sự gia tăng của bệnh ung thư đại tràng. Không phải polyp nào cũng trở thành ung thư. Hầu hết người trưởng thành có thể bị polyp, nhưng đa số họ không bị ung thư.”

Các nhà nghiên cứu y học đang cố gắng xác định loại polyp nào sẽ phát triển thành ung thư trong tương lai.

Polyp đại tràng hiện được phát hiện và loại bỏ qua nội soi đại tràng, một phương pháp được cân nhắc kỹ lưỡng vì không làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong, theo nghiên cứu được công bố vào năm ngoái trên Tập san Y học New England. Nghiên cứu có hơn 84,585 người tham gia ngẫu nhiên từ Ba Lan, Na Uy, Thụy Điển và Hà Lan.

Một nghiên cứu của Johns Hopkins năm 2018 cũng cho thấy, bệnh nhân nội soi đại tràng và nội soi đường tiêu hóa trên ở một số trung tâm ngoại trú có nguy cơ nhiễm trùng cao gấp 100 lần so với bình thường.

Phương pháp kiểm tra khác

Có ba xét nghiệm hiện bác sĩ sử dụng xác định xem một người có nên nội soi đại tràng hay không. Do nội soi đại tràng thường được khuyến nghị 10 năm một lần, những xét nghiệm khác có thể giúp sàng lọc thường xuyên hơn. Trong một số trường hợp, đây là xét nghiệm sàng lọc duy nhất được khuyến nghị cho người trưởng thành khỏe mạnh.

Xét nghiệm hóa miễn dịch và xét nghiệm tìm hồng cầu trong phân đều giúp phát hiện máu trong phân. Medicaid sẽ thanh toán cho một trong những xét nghiệm này hàng năm. Thông thường, người có máu trong phân được khuyến nghị thực hiện nội soi đại tràng.

Xét nghiệm DNA trong phân, còn gọi là xét nghiệm Cologuard, có thể phát hiện những thay đổi trong tế bào của đại tràng bằng cách xem xét DNA trong phân và máu. ​Xét nghiệm này được khuyến nghị ba năm một lần cho người trưởng thành từ 45 đến 85 tuổi không có nguy cơ cao hay triệu chứng của ung thư đại trực tràng.

Tỷ lệ ung thư đại tràng đang gia tăng

Trong khi tỷ lệ ung thư đại trực tràng đang giảm ở người lớn tuổi, tỷ lệ này lại tăng đều ở người từ 50 tuổi trở xuống. Ung thư đại trực tràng gây ra số ca tử vong cao thứ ba ở Hoa Kỳ, chỉ sau hai loại ung thư khác.

Gần như tất cả ung thư đại trực tràng đều phát sinh từ một polyp tiền ung thư, và cách tốt nhất để giảm tỷ lệ ung thư đại trực tràng là ngăn chặn sự phát triển của bệnh ở giai đoạn polyp.

Các yếu tố nguy cơ của ung thư đại trực tràng và polyp bao gồm thừa cân, ít hoạt động thể chất, ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến sẵn, hút thuốc và uống rượu.

Những yếu tố nguy cơ trên cũng ảnh hưởng đến vi khuẩn đường ruột. Tiến sĩ Chung cho hay, hiện vẫn chưa biết liệu vi khuẩn gây khởi phát polyp hay polyp tiến triển do vi khuẩn.

Ông nói, “Có những thay đổi này ở vi khuẩn, nhưng chúng không nhất thiết chỉ là do vi khuẩn thay đổi. Có những thay đổi trong lối sống của chúng ta đang làm biến đổi vi khuẩn.”

Giảm thiểu rủi ro

Mặc dù có một số mối liên quan di truyền, nhưng polyp và ung thư đại trực tràng phần lớn có thể phòng ngừa được bằng cách tránh các yếu tố rủi ro. Nhưng về phương pháp điều trị thực sự, các nghiên cứu chưa tìm thấy liều lượng hoặc thời gian cụ thể của một loại thực phẩm, thuốc hoặc chất bổ sung nhất định nào giúp ngăn ngừa vấn đề.

“Tuy nhiên, một số nghiên cứu tổng hợp cho thấy mối liên quan giữa nguy cơ ung thư đại tràng thấp hơn và thuốc chống viêm không steroid (NSAID) – chẳng hạn như aspirin, ibuprofen (Advil, Motrin) và naproxen (Aleve) – và việc tiêu thụ nhiều trái cây, rau và chất xơ. Nhưng các nghiên cứu khác lại không cho thấy như vậy,” một bài báo của Trường Y khoa Harvard viết.

Bài báo khuyên rằng mọi người không nên dùng NSAID khi chưa tham vấn ý kiến của ​​bác sĩ. NSAID có liên quan đến một loạt các tác dụng phụ, bao gồm xuất huyết tiêu hóa.

Có vô số giai thoại về những người đã chữa khỏi được khối u hoặc ung thư, nhưng điều này không mang đến một phương pháp hoặc phác đồ cụ thể được chấp nhận và sử dụng rộng rãi.

Ví dụ, cô Jillian Burne gần đây đã giúp đỡ một khách hàng mà kết quả nội soi đại tràng của người này cho thấy tổn thương có thể là ung thư. Các bác sĩ muốn phẫu thuật, nhưng cô Burne, một huấn luyện viên sức khỏe và nhà trị liệu dinh dưỡng được chứng nhận, đã thuyết phục khách hàng của mình cho cô 30 ngày để cố gắng đảo ngược tình trạng tổn thương đường tiêu hóa này.

Sau khi phân tích cách ăn uống và nhận thấy người này đã ăn sushi trên khắp thế giới, cô cho người bệnh dùng thuốc ký sinh trùng. Anh ấy quay lại bác sĩ để nội soi đại tràng sigma, là kỹ thuật đưa ống soi từ hậu môn vào để kiểm tra đại tràng xuống, và thực hiện sinh thiết lần thứ hai. Kết quả cho thấy các tế bào tiền ung thư đã bị hạ cấp thành viêm.

Cô Burne nói với The Epoch Times, “Khách hàng này đã rất may mắn khi có thể xoay chuyển tình thế nhanh như vậy. Ông ấy rất có thể đã kết thúc cuộc đời với một chiếc tã và túi đựng hậu môn nhân tạo. Thực trạng tôi đang thấy là chiến thuật gây sợ hãi mà bác sĩ dùng để đẩy mọi người nhanh chóng làm các thủ thuật và dùng thuốc.”

“Mọi người ký lên trên đường nét đứt trước khi họ rời khỏi phòng. Họ không về nhà và tìm hiểu thêm về bệnh, để rồi họ có thể phát hiện rằng rất nhiều trong số đó là những tình trạng có thể chữa khỏi được.”

Phòng chống ung thư

Thông thường, acid trong dạ dày sẽ tiêu diệt ký sinh trùng, nhưng cô Burne cho biết phần lớn người Mỹ bị thiếu acid dạ dày do thói quen ăn quá nhanh, quá nhiều và quá thường xuyên. Ngoài ra, cô cho biết nhiều người ăn uống khi họ đang căng thẳng trong khi quá trình tiêu hóa cần sự thả lỏng. Thức ăn nhanh và chế biến sẵn từ các loại dầu hạt rẻ tiền cũng gây ra tình trạng viêm nhiễm có thể làm trầm trọng thêm vấn đề ở đại tràng.

Cơ thể có khả năng chữa lành khi được cung cấp môi trường thích hợp. Nhưng cô Burne cho biết người bệnh cần duy trì tính kỷ luật để xoay chuyển tình thế và hầu hết mọi người không có động lực để thực hiện những thay đổi có ý nghĩa trong ăn uống hoặc tập luyện, cho đến khi đối mặt với một tình huống nghiêm trọng như việc mất một phần đại tràng.

Cô Burne nói, “Mọi người trở nên khỏe mạnh hơn khi họ có xu hướng tuân theo những điều cơ bản, như là dùng thực phẩm thật không phẩm màu, không thuốc nhuộm, không dầu độc hại. Polyp không có bất cứ ý nghĩa sinh học nào. Cơ thể sẽ tìm cách lưu trữ [chất dư thừa] nếu không thể loại bỏ chúng theo con đường đào thải thông thường. Chúng ta đang đặt quá nhiều áp lực lên hệ cơ thể. Mọi người cần chăm sóc tốt hơn cho cơ thể mình… ngoài việc chỉ cắt bỏ mọi thứ hoặc nhận lấy một viên thuốc.”

Thanh Ngọc biên dịch

Quý vị tham khảo bản gốc từ The EpochTimes

Amy Denney
BTV Epoch Times Tiếng Anh
Amy Denney là ký giả về sức khỏe của The Epoch Times. Amy có bằng thạc sĩ về báo cáo các vấn đề công cộng của Đại học Illinois Springfield và đã đạt được một số giải thưởng về báo cáo điều tra và sức khỏe. Cô tập trung vào hệ vi sinh vật, các phương pháp điều trị mới và sức khỏe tích hợp.
Chia sẻ bài viết này tới bạn bè của bạn