Thành phần nguy hại trong vaccine HPV tăng rủi ro cho người trẻ tuổi

Sự Thật Về Vaccine HPV (Phần 4)

Sự suy giảm niềm tin của công chúng đối với vaccine COVID-19 ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ chích vaccine phòng các bệnh thông thường ở trẻ em. Loạt bài này khám phá các nghiên cứu quốc tế được thực hiện trong hai thập niên qua về vaccine phòng virus u nhú ở người (HPV) – được cho là một trong những loại vaccine hiệu quả nhất cho đến nay.

Có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy hỗn hợp các tá dược có trong vaccine HPV và các loại vaccine khác là nguyên nhân gây ra những bệnh tự miễn sau chích vaccine ở một số bệnh nhân.

Những rối loạn do tá dược gây ra đã trở nên phổ biến đến mức các chuyên gia y tế đặt ra một thuật ngữ mới để mô tả hội chứng bao trùm này: Hội chứng tự miễn dịch/viêm do tá dược (ASIA).

Trong Phần 1, Phần 2 Phần 3 của loạt bài này, chúng ta đã thảo luận về vaccine HPV và mối liên hệ của chúng với chứng suy buồng trứng, bệnh thần kinh và bệnh tự miễn dịch, hiệu quả của vaccine trong việc ngăn ngừa ung thư cổ tử cung và việc các thử nghiệm lâm sàng không thể phát hiện ra các vấn đề về an toàn.

Trong Phần 4, chúng ta sẽ thảo luận về những lo ngại liên quan đến các thành phần cụ thể của vaccine và đưa ra một số phản ánh về quá trình phát triển vaccine HPV.

Phần 1: Bằng chứng về các tác dụng phụ trầm trọng của một trong những vaccine hiệu quả nhất

Phần 2: Các nghiên cứu trên quy mô lớn: Lo ngại về sự gia tăng các biến cố thần kinh và bệnh tự miễn hậu chích vaccine HPV

Phần 3: Các nghiên cứu hiện tại: Vaccine HPV có thể ngăn ngừa ung thư cổ tử cung hay không?

Tóm tắt các ý chính

  • Tá dược được sử dụng trong các vaccine HPV (bao gồm cả Gardasil) nhằm mục đích thu hút sự chú ý của hệ thống miễn dịch.
  • Nhôm là một tá dược phổ biến trong vaccine Gardasil có thể gây ra các tác dụng phụ.
  • Một thành phần “bí mật” khác được phát hiện của vaccine Gardasil là “HPV DNA”, cũng có thể là nguyên nhân gây ra các tác dụng phụ.
  • Cả hai tá dược sinh miễn dịch đều có thể gây ra phản ứng miễn dịch mạnh hoặc tình trạng tự miễn dịch.
  • Nghiên cứu nên tập trung vào các phân tích kỹ lưỡng rủi ro-lợi ích để xác định quần thể nào được hưởng lợi từ việc chích ngừa. Một số người có thể không được hưởng lợi từ việc chích ngừa, nhưng sẽ phù hợp nhất với cách tiếp cận bằng sàng lọc ung thư.

Nhôm, một tá dược vaccine có vấn đề

CDC liệt kê các loại vaccine sử dụng nhôm làm tá dược và Gardasil có trong danh sách này.

Để kích thích phản ứng miễn dịch tăng cường nhằm kéo dài đến 50 năm, Merck đã thêm một tá dược có chứa nhôm rất độc hại, gọi là nhôm hydroxyphosphate sulfate vô định hình (AAHS), vào vaccine Gardasil.

Nhôm là kim loại phổ biến thứ ba trong vỏ trái đất và hiện diện rộng rãi trong môi trường—trong thực vật, đất, nước, không khí, chuỗi thức ăn và dược phẩm. Trong khi đó, nhôm là một chất độc mạnh có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho nhiều hệ thống cơ thể người, không chỉ giới hạn ở hệ thần kinh, hô hấp, cơ xương, tiêu hóa, thận và gan.

Bộ não là mục tiêu chính của nhôm. Chất này có thể xuyên qua hàng rào máu não và đi vào não. Nhôm có liên quan với các cơ chế hoạt động sau (nhưng không chỉ giới hạn trong đó):

  • tạo ra các loại phản ứng oxy hoá
  • gây ra quá trình tự hủy của tế bào hình sao
  • đóng vai trò quan trọng trong quá trình oligome hóa β-amyloid
  • kích thích tổng hợp protein tau
  • gây ra tình trạng tự miễn dịch
  • tăng tính thấm hàng rào máu não
  • làm thay đổi cân bằng nội mô canxi nội bào
  • ảnh hưởng đến sản xuất năng lượng tế bào
  • làm thay đổi DNA

Các nghiên cứu được bình duyệt cho thấy nhôm liên kết với các protein không phải vaccine, bao gồm protein của vật chủ và virus tiềm ẩn, gây ra bệnh tự miễn dịch và các tình trạng nghiêm trọng khác.

Các chuyên gia về vaccine nhi khoa đang xác định mức độ phơi nhiễm với nhôm có thể chấp nhận được của trẻ em.

Trong một bài viết năm 2020 được đăng trên tạp chí Frontiers in Microbiology, bác sĩ Paul Offit và các đồng nghiệp đã lập luận rằng mức độ phơi nhiễm tích lũy của trẻ sơ sinh với nhôm qua vaccine trong suốt sáu tháng đầu đời thấp hơn mức độ phơi nhiễm tự nhiên qua sữa mẹ và sữa công thức cho trẻ sơ sinh.

Bác sĩ Offit là giám đốc của Trung tâm Giáo dục vaccine và là bác sĩ điều trị tại Khoa Truyền nhiễm tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia. Ông và các đồng nghiệp của mình đã phát triển vaccine và viết nhiều về vấn đề an toàn vaccine.

Nhưng lập luận này không chắc chắn. Vấn đề ở đây là sự tiếp xúc tích lũy của trẻ với nhôm. Những phơi nhiễm này đến từ các nguồn tự nhiên, chẳng hạn như sữa mẹ và sữa công thức cho trẻ sơ sinh. Nhiều loại vaccine và các sản phẩm dược phẩm khác được xếp chồng lên trên các phơi nhiễm tự nhiên này (ví dụ: một số nhãn hiệu vaccine vitamin K cho trẻ sơ sinh cũng chứa nhôm).

Điều đáng lo ngại hơn nữa là phiên bản mới hơn của vaccine này (Gardasil 9) chứa gần gấp đôi lượng AAHS so với phiên bản trước đó.

Thành phần ‘Bí mật’ của Gardasil

Các bác sĩ ở chín quốc gia đã gửi các mẫu Gardasil để được xét nghiệm DNA của papillomavirus ở người (HPV) vì họ nghi ngờ rằng DNA của HPV tái tổ hợp còn sót lại trong vaccine có thể là một yếu tố góp phần dẫn đến các tác dụng phụ không giải thích được sau khi chích vaccine.

Để tiến hành nghiên cứu này, các nhà khoa học đã yêu cầu các mẫu Gardasil từ Úc, Bulgaria, Pháp, Ấn Độ, New Zealand, Ba Lan, Nga, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Mỗi mẫu được xác nhận là từ một lô khác nhau.

Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng tất cả 16 mẫu Gardasil đều chứa các đoạn DNA của HPV. Các đoạn cụ thể bao gồm: DNA HPV-11, DNA HPV-18 hoặc các đoạn bao gồm các yếu tố của cả hai kiểu gen.

Người ta thấy các đoạn DNA của HPV gắn chặt vào tá dược (AAHS).

Liệu những phát hiện này có ý nghĩa lâm sàng hay không vẫn là một câu hỏi mở. Nghiên cứu bổ sung về tính an toàn của vaccine phải xem xét vấn đề này và thiết kế các nghiên cứu thích hợp để hiểu tác động sinh học của các đoạn DNA HPV còn sót lại liên kết với tá dược chứa khoáng chất dạng hạt.

Trang web của FDA tuyên bố về phát hiện này: “ thông tin của FDA về sự hiện diện của các đoạn DNA trong Gardasil đã nằm trong dự tính, không có rủi ro về mặt an toàn.” Tuy nhiên, nội dung của trang này không được tìm thấy vì những lý do không xác định khi cố gắng truy cập vào ngày 25 tháng 2 năm 2023.

Thành phần này có thể kích thích viêm

Tá dược vaccine khiến hệ thống miễn dịch tạo ra phản ứng mạnh mẽ. Điều này rất hữu ích khi chích vaccine cho người cao tuổi, những người có hệ thống miễn dịch ở “tuổi già”, nghĩa là đang bắt đầu suy yếu. Tuy nhiên, tá dược trong vaccine được thiết kế cho những người trẻ tuổi có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, những người trải qua các thay đổi chuyển hóa to lớn trong thời niên thiếu và cần thêm nhiều sự thận trọng.

Những đoạn DNA này có thể hoạt động như một chất chủ vận thụ thể giống toll 9 (“TLR9”). TLR là một nhóm protein trên bề mặt hoặc bên trong tế bào, hoạt động ở tuyến đầu của hệ thống miễn dịch, phát hiện các mầm bệnh hoặc tín hiệu có hại khác nhau từ môi trường và phản ứng với chúng.

TLR9 ưu tiên liên kết DNA có trong virus và vi khuẩn, đồng thời kích hoạt các dòng thác tín hiệu dẫn đến phản ứng cytokine tiền viêm, từ đó có thể kích hoạt các phản ứng viêm thần kinh riêng biệt trong hệ thần kinh.

Tiến sĩ Sin Hang Lee, giám đốc Milford Molecular Diagnostics có trụ sở tại Connecticut, đã phỏng đoán rằng nếu không bổ sung chất chủ vận TLR9, Gardasil sẽ không sinh miễn dịch. Theo Lee, các đoạn DNA liên kết với các hạt nano giống virus AAHS đóng vai trò là chất chủ vận TLR9 trong cả vaccine Gardasil và Gardasil 9, tạo ra tá dược kích thích miễn dịch mạnh nhất được từng được sử dụng trong bất kỳ loại vaccine nào.

Lee cũng tìm thấy các đoạn DNA của HPV từ vaccine Gardasil trong lá lách và mẫu máu lấy từ một cô gái tuổi teen khỏe mạnh đã chết sáu tháng sau khi tiêm mũi vaccine HPV thứ ba.

Trong một cuốn sách giáo khoa năm 2015, vaccine và khả năng tự miễn dịch, do Tiến sĩ Yehuda Shoenfeld, cha đẻ của nghiên cứu về khả năng tự miễn dịch, có các bài viết của nhiều chuyên gia hàng đầu thế giới về tự miễn dịch. Các nhà khoa học này kết luận rằng Gardasil có thể gây rối loạn tự miễn dịch do các thành phần kích thích miễn dịch mạnh của vaccine.

Các biến cố bất lợi nghiêm trọng sau khi chích vaccine HPV

  1. Rối loạn thần kinh và tự miễn dịch

Y văn đã báo cáo các rối loạn thoái hóa viêm thần kinh do miễn dịch tiềm ẩn liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương, được gọi là viêm não tủy lan tỏa cấp tính, sau khi tiêm Gardasil. Các nghiên cứu sổ bộ mở rộng được thực hiện ở Đan Mạch, Thụy Điển và Đức đã xác định mối liên hệ đáng tin cậy giữa việc chích vaccine HPV và các tình trạng tự miễn dịch. Chủ đề này được đề cập trong Phần 2 của loạt bài này.

  1. Tử vong không rõ nguyên nhân

Trong một nghiên cứu JAMA Network Open xuất bản năm 2009, 12.424 phản ứng bất lợi được báo cáo đã được ghi lại trong Hệ thống báo cáo tác dụng phụ của vaccine (VAERS) sau khi chích vaccine Gardasil từ ngày 1 tháng 6 năm 2006 đến ngày 31 tháng 12 năm 2008. Trong số này có 32 trường hợp tử vong với độ tuổi trung bình 18 tuổi. Các trường hợp tử vong xảy ra từ hai đến 405 ngày sau khi tiêm Gardasil.

Trong số 32 trường hợp tử vong, hồ sơ y tế và báo cáo khám nghiệm tử thi đã được đánh giá cho 20 trường hợp. Những cuộc đánh giá này đã xác nhận 4 trường hợp tử vong không rõ nguyên nhân và 6 trường hợp tử vong liên quan đến tim mạch. Không có nỗ lực thiết lập mối quan hệ nhân quả, nghĩa là bất kỳ nỗ lực nào nhằm đảm bảo hoặc loại trừ mối liên hệ với vaccine Gardasil. Tuy nhiên, các tác giả đã báo cáo rằng tình trạng ngất của người tiêm Gardasil (mất ý thức do tụt huyết áp) và các biến cố thuyên tắc huyết khối (ví dụ: huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi) cao một cách không tương xứng.

  1. Ngất

Ngất xảy ra ở 1,896 trường hợp, một nửa diễn ra trong vòng 15 phút sau khi tiêm. Trong số những người bị ngất, 15% dẫn đến ngã và hầu hết những cú ngã này (68%) dẫn đến chấn thương đầu. Người được chích vaccine nên ngồi nghỉ trong vòng 15 phút sau khi tiêm.

  1. Huyết khối

Tỷ lệ báo cáo biến cố thuyên tắc huyết khối là 4,8 đối với trẻ từ 6 đến 17 tuổi (p=0,04) và 6,7 đối với trẻ từ 18 đến 29 tuổi (p=0,006). Trong số 31 trường hợp, 28 trường hợp có yếu tố nguy cơ đã biết đối với thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch. Các yếu tố rủi ro bao gồm biện pháp tránh thai có chứa estrogen ở 20 trong số 31 trường hợp.

  1. Sốc phản vệ

Sốc phản vệ ở phụ nữ trẻ được chích vaccine Gardasil cao hơn khoảng 10 đến 53 lần so với tỷ lệ được xác định trong chương trình tương đương về chích vaccine viêm màng não mô cầu C ở trường học. Tỷ lệ sốc phản vệ liên quan đến HPV là 1,0 đến 5,3 trên 100.000, trong khi tỷ lệ này là 0,1 trên 100.000 khi chích vaccine viêm màng não mô cầu C. Tất cả các trường hợp sốc phản vệ được xác định bằng cách sử dụng định nghĩa trường hợp sốc phản vệ của Brighton.

Vaccine HPV cho nam giới

Việc chích ngừa định kỳ cho bé trai và nam giới chỉ được thực hiện ở một số quốc gia, bao gồm Úc, Canada và Hoa Kỳ. Các chương trình chích ngừa toàn dân được thiết kế để tăng khả năng miễn dịch cộng đồng giữa nam và nữ và giảm tỷ lệ bệnh ở hậu môn, dương vật, đầu và ung thư cổ ở những nam giới cụ thể.

Các triệu chứng nhiễm HPV ở nam giới bao gồm các triệu chứng sau trên dương vật, hậu môn, bìu hoặc miệng:

  • mụn cóc
  • phì đại
  • lở loét
  • cục u

Một phân tích gộp về tính hiệu quả và an toàn của vaccine HPV ở nam giới đã được tiến hành nhằm thu thập nghiên cứu trong suốt năm 2017. Bảy nghiên cứu đã được đưa vào phân tích, bao gồm dữ liệu về khoảng 5.000 nam giới; bốn nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên và ba nghiên cứu không ngẫu nhiên. Chỉ có hai nghiên cứu bao gồm các tác dụng phụ nghiêm trọng và không có nghiên cứu nào được các nhà điều tra đánh giá là có liên quan đến vaccine.

Nghiên cứu này cho thấy rằng vaccine sẽ hiệu quả hơn ở nam giới nếu được chích trước khi bắt đầu hoạt động tình dục. Phát hiện này bổ sung cho nghiên cứu dẫn đến kết luận tương tự trên phụ nữ.

Các tác giả nhấn mạnh rằng cần có nhiều nghiên cứu hơn để xác định lợi ích của các chương trình chích ngừa quy mô lớn ở nam giới. Mặc dù phân tích gộp năm 2018 này về tính hiệu quả và an toàn của việc chích vaccine HPV là nghiên cứu đầu tiên được xuất bản dành cho nam giới, nhưng bảy phân tích gộp trong số gần 46,000 người tham gia đã được thực hiện cho nữ giới, cho thấy tỷ lệ nghiên cứu ở nữ giới vào thời điểm đó là không tương xứng.

Một số yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ bị ung thư hậu môn, dương vật và cổ họng do HPV ở nam giới, bao gồm hút thuốc, bắt đầu hoạt động tình dục sớm, tình trạng dương tính với HIV và quan hệ tình dục đồng giới nam. Sử dụng bao cao su, duy trì mạng lưới quan hệ tình dục ổn định và bắt đầu sinh hoạt tình dục muộn hơn đều làm giảm nguy cơ. Một số nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể cung cấp xét nghiệm Pap hậu môn cho những nam giới có nguy cơ ung thư hậu môn cao hơn, chẳng hạn như nam giới nhiễm HIV và những người quan hệ tình dục qua đường hậu môn.

CDC tuyên bố rằng việc chích vaccine không được khuyến nghị phổ biến cho nam giới trên 26 tuổi: “Việc chích vaccine HPV cho độ tuổi từ 27 đến 45 mang lại ít lợi ích hơn. Hầu hết những người trưởng thành có hoạt động tình dục đều đã tiếp xúc với virus HPV, mặc dù việc chích vaccine không nhắm vào tất cả các loại virus.” Những người có mối quan hệ ổn định không có khả năng bị nhiễm HPV mới.

Chúng ta có thực sự cần chích ngừa HPV không?

Nhiễm HPV là một yếu tố nguy cơ gây ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố nguy cơ khác gây ung thư cổ tử cung, bao gồm quan hệ tình dục trước 16 tuổi, có nhiều bạn tình, phơi nhiễm HIV, hút thuốc và tiếp xúc với chất gây ung thư khi còn trẻ.

Nghiên cứu trong tương lai nên xem xét tỷ lệ sàng lọc khác nhau dựa theo theo sắc tộc, tuổi và tình trạng kinh tế xã hội. Kết quả nên được phân tầng theo độ tuổi khi quan hệ tình dục lần đầu tiên và lịch sử chích ngừa để bắt đầu phân tích tác động của việc chích ngừa sớm cùng với sự chênh lệch về tỷ lệ sàng lọc.

Nghiên cứu cũng phải xem xét tác dụng bảo vệ của khả năng miễn dịch tự nhiên chống lại HPV.

Kêu gọi các hành vi tình dục có đạo đức hơn

Có hợp lý không khi xét nghiệm phụ nữ trước khi chích ngừa nếu họ đã có hoạt động tình dục? Có lẽ. Vì chích ngừa là phòng bệnh nên chúng ta có thể tối ưu hóa lợi ích của vaccine và giảm thiểu tác hại bằng cách chích vaccine cho những người chưa bị nhiễm bệnh (phòng ngừa tiên phát) và tập trung vào sàng lọc ung thư (phòng ngừa thứ phát) cho những người đã bị nhiễm HPV.

Thanh thiếu niên quan hệ tình dục sớm có nguy cơ mắc nhiều vấn đề về sức khỏe thể chất và tinh thần cao hơn. CDC gần đây đã công bố một báo cáo nêu rõ: “Gần một phần năm phụ nữ trẻ đã từng bị bạo lực tình dục—tăng 20% kể từ năm 2017.” Khoảng một trong 10 cô gái tuổi teen cho biết họ bị ép quan hệ tình dục.

Bạo lực tình dục là một mối lo ngại nghiêm trọng và việc ngăn ngừa các quan hệ tình dục ngoài ý muốn nên được ưu tiên. Cha mẹ, cơ quan y tế công cộng và bác sĩ có thể giúp bảo vệ các cô gái tuổi teen bằng cách hướng dẫn họ dự đoán các tình huống rủi ro cao. Điều này cũng sẽ giúp ngăn ngừa ung thư cổ tử cung và bộ phận sinh dục bằng cách giảm tiếp xúc thân mật không mong muốn. Tăng cường quá trình sàng lọc ung thư ở những người đã hoạt động tình dục là một cách khác để giảm tỷ lệ tử vong do ung thư cổ tử cung.

Bên cạnh bằng chứng cho thấy vaccine HPV gây hại và không có phân tích rõ ràng về rủi ro-lợi ích, việc chích vaccine cho thanh thiếu niên nhằm phòng bệnh lây truyền qua đường tình dục làm nảy sinh các vấn đề về đạo đức và luân lý. chích vaccine cho thanh thiếu niên và thanh niên với lời hứa ngăn ngừa bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ gây ra rủi ro đạo đức—họ có thể tham gia vào các hoạt động có rủi ro cao hơn vì cảm thấy an toàn khi làm như vậy.

Với ý thức rằng sẽ được bảo vệ, thanh thiếu niên có thể tham gia vào các hành vi tình dục khi còn rất nhỏ, điều này thường liên quan đến các hoạt động có nguy cơ cao khác như sử dụng chất gây nghiện. Thay vào đó, chúng ta có thể điều hướng các nguồn lực để giúp thanh thiếu niên thực hiện các bước cụ thể hướng đến ưu tiên việc chăm sóc bản thân, vào thời điểm mà các sự kiện và những người xung quanh thách thức lòng tự trọng của họ.

Khuyến khích ảnh hưởng xã hội tích cực

Các nhà lãnh đạo cộng đồng và các chuyên gia y tế công cộng có thể đầu tư vào các hoạt động nâng cao sức khỏe, chẳng hạn như xây dựng các trung tâm cộng đồng và phòng tập thể dục để dễ dàng tiếp cận các hoạt động thể chất thường xuyên và kết nối xã hội bất kể thu nhập gia đình, giúp tất cả thanh thiếu niên xây dựng một mạng lưới xã hội mạnh mẽ với các giá trị được chia sẻ.

Thanh niên cũng phải thiết lập thói quen ngủ và dinh dưỡng tốt, phát triển mối quan hệ lành mạnh với rượu và hiểu mối liên hệ giữa sức khỏe tinh thần và thể chất.

Cuối cùng, các bậc cha mẹ bận rộn phải được trợ giúp nhằm nâng cao cảm giác thân thuộc của con họ trong cộng đồng của mình.

Mặc dù lời hứa về công nghệ vaccine dành cho con người giúp ngăn ngừa bệnh tật và thậm chí chữa khỏi bệnh ung thư thật hấp dẫn, nhưng chúng ta nên suy ngẫm một cách sáng suốt về mối quan hệ lâu đời giữa virus và con người.

Chắc chắn rằng vaccine đã cải thiện đáng kể các kết cục sức khỏe quan trọng ở trẻ em, nhưng những loại vaccine mới hơn dành cho người trẻ tuổi khỏe mạnh phải tuân theo các tiêu chuẩn khắt khe nhất nhằm ước tính các rủi ro và lợi ích liên quan.

Chất lượng dữ liệu và tính minh bạch là bắt buộc

Khi xem xét bằng chứng để đưa vào phân tích rủi ro-lợi ích, cần phải đánh giá chất lượng của các tổng quan hệ thống một cách thận trọng. Một ấn phẩm gần đây đã so sánh thứ hạng của các tổng quan hệ thống vaccine được tài trợ và không được tài trợ. Các nghiên cứu không được tài trợ có điểm chất lượng cao hơn so với các nghiên cứu được tài trợ.

Các quan chức y tế công cộng nên hạn chế đưa ra các khuyến nghị chung chung dựa trên khoa học sơ sài và thay vào đó đầu tư vào các thử nghiệm mạnh mẽ có thể thực sự làm sáng tỏ vaccine mang lại lợi ích cao nhất cho đối tượng nào. Các thử nghiệm lâm sàng phải có quy mô phù hợp và được tiến hành trong một khoảng thời gian đủ dài để phát hiện các lợi ích và rủi ro. Chắc chắn một số nhóm con sẽ đạt được giá trị trong khi những nhóm khác thì không.

Để bảo vệ chương trình vaccine của Hoa Kỳ, các quan chức trong ngành và cơ quan y tế phải:

  1. Tiến hành các thử nghiệm chặt chẽ được trợ giúp để phát hiện các dấu hiệu liên quan đến an toàn,
  2. Nhanh chóng phát hành dữ liệu thử nghiệm cá nhân, được ẩn danh để kiểm tra công khai,
  3. Phát triển các phân tích rủi ro-lợi ích minh bạch và chặt chẽ trước khi đưa ra khuyến nghị, và
  4. Xóa bỏ việc chích vaccine bắt buộc.

Các chính sách về vaccine có đạo đức là điều cần thiết để khuyến khích việc lựa chọn lối sống giúp tăng cường sức khỏe thể chất và tinh thần.

Đại Hải biên dịch

Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times

Chia sẻ bài viết này tới bạn bè của bạn